A-tỳ-đàm (Abhidhamma, Abhidharma, Vi diệu pháp, Thắng pháp, Vô tỷ pháp, ...)
Nguyên tác: Collett Cox
Dịch Việt: Pháp Hiền cư sĩ (http://www.phatviet.com/)
*
Bà Collett Cox là Giáo sư khoa Phật học và Văn học Sanskrit, Đại học Washington (Washington University), Hoa Kỳ.
*
Trong những thế kỷ sau Phật diệt độ, với sự hiện diện của những cộng đồng tu sỹ [tăng đoàn] đã ổn định này, từ nơi đây, các hành nghi mới về tu tập [praxis] tôn giáo, những phương pháp về sự truyền đạt và chú giải giáo lý được khởi sinh. Trong bối cảnh có tổ chức nhiều ấy, những vị đệ tử Phật bắt đầu kiểm tra trở lại các truyền thống được truyền thừa và phát triển những phương thức tổ chức mới, mà nó hẳn đã làm hiển ngôn ý nghĩa nền tảng của mình và tạo thuận duyên cho sự truyền đạt trung thực của mình nữa. Tuy bắt đầu bằng một phương thức soạn thảo dựa vào sự thật những giáo thuyết được thừa nhận rộng rãi, thế nhưng sự nghiệp học thuật này ngay sau đó đã dẫn đến các phát triển giáo nghĩa theo phương hướng mới và các phát triển theo chính văn, với lại sự nghiệp này đã trở thành trung tâm điểm cho một hành nghi mới của đời sống tu viện học thuật.
Những thành quả học thuật này, đã thành là truyền thống đáng trân trọng bằng thẩm quyền của chính họ, rốt lại, Abhidharma, có thể làm mờ đi những pháp thoại của Phật-đà, của chư đệ tử Ngài, như là vị trọng tài [vô tư] của thánh giáo và minh định cả phương pháp chú giải lẫn các thể tài quan yếu, sở y cho những nghiên cứu Phật giáo Ấn-độ hậu kỳ.
A-tỳ-đàm, ý nghĩa và nguồn gốc.
Sự nghiệp học thuật này được gọi là A-TỲ-ĐÀM, (Pāli: Abhidhamma), đây là một thuật ngữ đa nghĩa quen dùng để chỉ cho những kỹ thuật mới về chú giải giáo lý, chỉ cho bộ phận hay thân của các bản văn mà sự chú giải này đã sinh trưởng, sau rốt là chỉ cho [trạng thái] khảo sát lấy phân tích làm trọng tâm [the crucial discriminating insight, tuệ minh sát / tuệ quyết trạch] đã được tinh luyện qua sự chú giải giáo lý và đem ra ứng dụng trong các thực hành tôn giáo của mình.
Theo các nguồn truyền thống, thuật ngữ Abhidharma có hai cách hiểu: “Tương ưng với (abi) Pháp (dharma) hoặc là tột bậc [vi diệu], hay vượt trội (abhi) Pháp (dharma) - Pháp siêu việt". Đương nhiên, đối tượng phân tích Abhidharma là Pháp (dharma) như đã hiện thân trong những pháp thoại của Phật đà và chư đệ tử của Ngài. Tuy nhiên, Abhidharma không chỉ quy kết hay tóm tắt giáo pháp của các kinh (sūtra), mà hơn thế, nó còn cải tổ nội dung và hiển đạt hàm ngôn của Kinh bằng luận giải nữa. Trong Abhidharma, nội dung đặc trưng của những bản kinh riêng lẻ khác nhau đã được tách ra và tái tổ chức cho phù hợp với tiêu chuẩn phân tích mới, nhờ vậy mà nó có thể cho phép ta nhận thức được thông điệp chân thật của các Kinh điển cá biệt ấy. Thông điệp chân thật như vậy, như ta thấy ghi lại trong Tạng luận này, bao hàm những dữ kiện và các bộ phận cấu thành nối kết lại để thiết lập tất cả thẩm nghiệm. Sự phân tích này, lần lượt giúp ta nhận ra được giữa các tâm tố nhiễm ô [phiền não - vô minh] là cạm bẩy gài ta vào tiến trình tái sinh [luân hồi] và các tâm tố giải thoát [pháp vô lậu] dẫn ta vào Phật tuệ. Cuối cùng, những tâm tố nhiễm ô và giải thoát đã được nhận thức rõ ràng rồi, thì lộ trình tu hành chính xác hẳn sẽ hiển lộ. Do vậy, Abhidharma không chỉ là sự chú giải mang tính học thuật đơn thuần mà nó còn là tạng luận chứa đựng huyền nghĩa cứu độ chúng sinh [những chú giải thuộc về thần học cứu rổi thế gian, soteriological exegesis], rất cần cho lộ trình tu tập đem lại tính hiệu quả rõ ràng.
Các nguồn truyền thống không nêu ra cho ta biết những mô tả nhất quán nào về lai lịch của phương pháp Abhidharma hoặc sự tập thành của những bản văn thuộc về nó cả. Một vài mô tả thuộc về truyền thống cho rằng sự tạo thành của các văn bản Abhidharma có thể vào thời điểm của cuộc kết tập [hội đồng trưởng lão] lần thứ nhất ngay sau khi đức Phật diệt độ, lúc bấy giờ, giáo thuyết của Ngài được trùng tuyên và ghi lại thành Tam tạng thánh điển: Kinh (sūtra), Luật (vinaya), Luận (mātṛkā hay abhidharma). Bởi vậy, các nguồn truyền thống dứt khoát cho rằng, Abhidharma là của chính Phật. Qua những luận tạng Abhidharma độc lập này, câu hỏi về tác giả và tác quyền là ai, vẫn luôn là một thể tài đáng tranh luận trong thời gian tới, bằng tính chính xác nhất.
Mặc dù, nhiều TRƯỜNG PHÁI PHẬT GIÁO CHÁNH THỐNG (MAINSTREAM BUDDHIST SCHOOLS) đã thừa nhận thẩm quyền của những bản văn Abhidharma này và đưa chúng vào trong các tạng Kinh của mình như là lời Phật. Thế nhưng vài trường phái không chấp nhận thẩm quyền của luận thư này, họ tuyên bố là, những tạng thư Abhidharma, do các thế gian sư [human teachers] phạm sai lầm soạn ra. Các luận thư Abhidharma độc lập đã được biên soạn ở một thời kỳ tối thiểu là khoảng bảy trăm năm (khoảng thế kỷ thứ hai hoặc thứ ba trước công nguyên, đến thế kỷ thứ năm sau công nguyên). Việc xuất hiện và sau cùng là sự phát triển của chúng xảy ra đồng thời với hiện tượng phân phái phát sinh trong cộng đồng Phật giáo sơ kỳ. Những dị biệt giáo nghĩa giữa những bộ phái khác nhau, mà một đôi phần, đã là kết quả tự nhiên của những trực hệ đặc thù thuộc về việc truyền thừa nguyên văn, mà chúng đã được gạn lọc qua các cuộc tranh luận học thuật và đã được thuyết minh tường tận bằng công trình biên soạn các tác phẩm lý giải Abhidharma độc lập.
Theo quan điểm học thuật dựa trên các nguồn dành cho thể loại luận thư Abhidharma độc lập này, người ta đã chia phần ra cho hai giả thuyết, nghĩa là, một trong hai giả thuyết ấy đã tìm ra được nền tảng sở y qua đặc tính cấu trúc [structural characteritic] của các bản văn Abhidharma. Giả thuyết thứ nhất đặt trọng tâm vào việc thực hiện những khuôn mẫu có hệ thống tham chiếu chính xác hoặc những biểu đồ phân loại (mātṛkā) về mọi thể tài đã thiết lập trong giáo lý truyền thống, mà sau đó, chúng được phối trí có trật tự theo cả hai tiêu chuẩn: Pháp số (numeric, thuộc về pháp số) và tánh (qualitative, phẩm loại). Giả thuyết thứ hai nhấn mạnh đến những giảng luận (dharmakathā, pháp luận) qua hình thái vấn đáp để nỗ lực thấu triệt tính phức tạp hay những điểm còn ẩn ngôn trong Kinh. Cả hai đặc tính cấu trúc này gợi lên một tiến trình tiêu biểu nhờ vào những gì mà các luận thư Abhidharma độc lập tạo nên: Một phát thảo khuôn mẫu dùng làm ký lục [record] hoặc có thể là những trưc giảng mà trong đó các yếu điểm của chư Kinh sau đó đã được thuyết thành chi tiết qua kỷ thuật hỏi và đáp liên quan đến giáo pháp.
Bất chấp giả thuyết nào trình bày xác đáng hơn về nguồn gốc những luận thư Abhidharma độc lập, [bởi vì] phương thức chú giải kép này đã phản ảnh một xu thế bền vững trong truyền thống Phật giáo, từ sơ kỳ trở đi, hướng đến cách trình bày bằng phân tích qua những phạm trù phân loại và hướng đến việc bổ xung chi tiết bằng diễn đạt phân tiết mạch lạc qua kỷ thuật vấn đáp. Cái cần thiết là quán niệm Pháp hay ghi nhớ giáo thuyết một cách rõ ràng, thúc đẩy công dụng các bảng danh mục phân loại như là một cẩm nang khéo giúp trí nhớ, và vài bản kinh đã miêu tả phương pháp phân loại này như là một cách tóm tắt những tinh hoa giáo pháp và ngăn ngừa được sự bất đồng quan điểm [averting dissention]. Các bản Kinh khác đã diễn tiến hầu như toàn là những chú giải bằng lời, ở đây, pháp ngữ cô đọng của Phật đã được phân tích toàn diện qua tiến trình của luận sự hay chất ngữ [hỏi, interogation] và Pháp tụ [exposition, lý chứng].
Cả hai phương pháp này đã chứng thực đầy đủ trong tạng Kinh, đã được khai triển thành công trong những tạng luận học thuật độc lập tiếp theo sau đó, tuy nhiên, một ít luận bản trong số này không thể liệt vào tạng Abhidharma có tính pháp loại, giáo quy, và cũng không thể liệt vào những luận tạng có tính chất Abhidharma được. Chẳng hạn, sự tập thành những văn bản (khuddakaṭipiṭaka—Tiểu bộ kinh) tổng hợp về giáo quy của Trưởng lão bộ (Theravāda, Nguyên thủy bộ phái), trong đó có đến hai văn bản sử dụng các phương pháp như vậy mà chúng vẫn không được công nhận là các bản văn “Abhidharma” hợp tiêu chuẩn. Một trong Tiểu bộ kinh là bản Paṭisambhidāmagga (Path of Discrimination, Vô ngại giải thoát đạo kinh) chứa đựng những giảng giải cô đọng về các điểm giáo pháp có cấu trúc phù hợp với bảng liệt kê danh sách đề mục, (Skt: Mātṛkā. Pāli: Mātikā. H: Luận mẫu 論母) còn bản kinh Phân biệt diễn thuyết (Nirdeśa. Pāli: Niddesa. H: 分別演說) thì bao hàm sự chú giải bằng việc tập thành thi kệ sơ kỳ, ngay cả thánh điển Kinh tập cũng vậy (Pāli: Suttanipāta. H: 經集, chính là quyển kinh thứ 24 trong Nam Truyền Đại Tạng). Thật thế, điểm dứt khoát minh định về nguồn gốc dành cho Abhidharma với tư cách là một luận tạng độc lập thuộc về Kinh điển chánh văn, phản ảnh duy nhất bối cảnh truyền thống hậu kỳ mà chính truyền thống này đã phong danh hiệu cho vài bản văn với tên gọi là Abhidharma, ngược lại với [hồng danh] các Kinh, hoặc có thể có những tác phẩm chú giải [tạng Pháp tụ] sớm hơn nữa đã chia phần cùng các đặc tính tương tợ như vậy, sau một biến trình lãng quên dài hạn.
Những bản văn A-tỳ-đàm
Những mô tả thuộc về truyền thống của các bộ phái Phật giáo sơ kỳ Ấn độ gợi cho biết rằng, ít ra một vài bộ phái đã chia phần rồi với các tuyển tập theo chánh văn, và nhiều các bộ phái đã truyền lưu những tạng luận Abhidharma độc lập của riêng mình nữa. Đường Huyền Trang, nhà Phật giáo Trung hoa, đã hành hương đến Ấn độ vào thế kỷ thứ bảy sau công nguyên (khoảng năm 600-664 sau công nguyên), vị ấy được báo cho biết để sưu tập một khối lượng văn bản đáng kể cũng nhiều như bảy bộ phái Phật giáo chánh thống. Hầu như sự kiện này chắc chắn bao gồm luôn cả những bản văn thuộc về Abhidharma giáo quy [kinh tạng] đại diện cho những bộ phái khác nhau cũng nên. Tuy nhiên, chỉ có hai tạng giáo quy, là được toàn vẹn, đại diện cho Phật giáo Nguyên thủy và Đại chúng bộ mà thôi, còn vài ba bản nữa, nói lên sự gia nhập có quan hệ giáo phái chưa xác định [undetermined sectarian affiliation], tất cả đều được bảo lưu. Cho dù các tạng Abhidharma của một trong hai bộ phái ấy chứa đựng đến bảy bản văn đi nữa, thì các tạng giáo quy riêng lẻ này chắc không thể nào được đồng nhất với tạng giáo quy khác.
Tuy nhiên, công cuộc tra cứu kỹ lưỡng về vài bản văn từ mỗi một tạng và từ sự so sánh với những tư liệu Abhidharma khác hiện còn, chúng đã hiển lộ những điểm tương đồng trong các bảng danh mục phân loại cơ bản, trong cấu trúc chú giải và trong những thể tài đã được diễn giãng. Những tương đồng này, hoặc là gợi lên điểm tiếp xúc giữa các nhóm tác tạo và truyền lưu các bản văn ấy, hoặc là gợi lên nền tảng chung của các chú giải giáo thuyết và thậm chí tư liệu chính văn đã có thể xãy ra trước cả sự phát sinh của các bộ phái phân kỳ.
Tạng Abhidharma giáo quy của bộ phái Nguyên thủy này, chỉ còn duy nhất một tạng viết bằng tiếng Pāli, gồm có bảy văn bản như sau:
1. Vibhaṅga [Phân biệt]
2. Puggalapañnati [Nhân thi thuyết luận]
3. Dhātukathā [Chất ngữ]
4. Dhammasaṅgani [Pháp tụ]
5. Yamaka [Song đối]
6. Paṭṭhāna [Vị trí]
7. Kathāvatthu [Luận sự]
Tạng giáo quy Abhidharma của Nhất thiết hữu bộ, cũng có bảy bản văn hiện chỉ tồn tại trong Hoa dịch:
1. Saṅgītiparyāya [Tập dị môn túc luận, T-1536]
2. Dharmaskandha [Pháp uẩn túc luận, T-1537]
3. Prajñāptiśāstra [Thi thiết túc luận, T-1538]
4. Dhātukāya [Giới thân túc luận, T-1540]
5. Vjñākāya [Thức thân túc luận, T-1539]
6. Prakaraṇapāda [Phẩm loại túc luận, T-1541, 1542]
7. Jñāprasthāna [Phát trí luận, , T-1544, 1543] [1]
Nhiều bản văn Abhidharma sơ kỳ hiện còn trong dịch phẩm tiếng Hoa, chúng hầu như đại diện cho những văn bản giáo quy Abhidharma của các bộ phái khác còn đến giờ: Chẳng hạn, Śariputrābhidharmaśāstra (Xá- lợi-phất A-tỳ-đàm tâm luận - Đại chánh tạng, 1548) có thể đã có liên hệ rồi đến bộ phái Vibhajyavāda, [phân biệt luận] hay là Saṃmatīyaśāstra (Đại chánh tạng, 1649), đã được liên kết với bộ phái Saṃmatīya nhờ tên kinh của nó, và cũng vậy mà nó đã phối hợp cùng bộ phái Vātsīputrīya [Độc tử bộ] cũng nên.
Vì việc thiếu chứng cứ lịch sử đối với niên đại chính xác của các luận thư Abhidharma hiện còn, tạm thời các học giả đã đề xuất các bảng niên đại có quan hệ, chủ yếu dựa vào những tiêu chuẩn theo hình thái nội tại để giả ước sự phức hợp của cơ cấu tổ chức và phương pháp chú giải của chúng đang tăng trưởng. Người ta có được kết luận là, những bản văn Abhidharma ở thời kỳ sớm nhất mang theo mình các nét rất tương cận với chư Kinh và đều được cấu trúc với những chú giải ngang qua toàn kinh điển hoặc ngang qua các tạng Kinh và chúng đã được phối trí phù hợp với các bảng danh sách phân loại.
Bản Vibhaṅga [Phân biệt] và Puggalapññatti [Nhân thi thuyết luận] của chư gia Nguyên thủy, bản Saṅgītiparyāya và bản Dharmaskandha của chư gia Nhất thiết hữu bộ cũng minh dụ những đặc tính như vậy. Bộ tiếp đến của các bản văn Abhidharma đã phơi trần sự giải thoát khỏi bộ khung hạn hẹp của những chú giải về chư kinh riêng lẻ, tức là bằng cách chọn một quan điểm siêu việt hơn [quan điểm trừu tượng, abstract stance] để nhiếp tập tinh hoa kinh điển [chất liệu giáo lý] từ những nguồn đa dạng dưới bộ khung phân tích trừu tượng về những phạm trù mà chúng thường được tạo ra một cách mới lạ. Giai đoạn trung gian này hẳn đã bao quát luôn cả năm luận bản hiện đang tồn tại trong bộ phái Nguyên thủy và trong các luận tạng Abhidharma của Nhất thiết hữu bộ. Văn phong diễn giải bằng vấn đáp, đã có được kết cấu và công thức căn bản nhiều hơn trong những văn bản Abhidharma ở giai đoạn trung gian này, thậm chí vẫn còn trong các văn bản Abhidharma sơ kỳ. Những thành quả tối hậu hay quyết định trong tiến trình siêu việt [trừu tượng hóa] này, thật sự đều là các tạng luận độc lập, triển khai sức sáng tạo được ký hiệu hóa [mã hóa] bằng thuật ngữ kỷ thuật và nghệ thuật khảo đính [danh pháp học] giáo nghĩa. Một vài văn bản, cụ thể là luận điển Kathāvatthu [Luận sự] của chư gia Nguyên thủy Phật giáo và luận điển Thức thân [Vjñānakāya] của chư gia Nhất thiết hữu bộ, cả hai đều đã diễn ra một nhận thức có những nét khác biệt trong việc kiến giải giáo nghĩa và diễn ra các liên kết bộ phái [bè phái], mặc dù họ không chọn kiểu bút chiến được triển khai trong nhiều tác phẩm Abhidharma về sau.
Thành phần cấu tạo của các tạng luận Abhidharma không phải kết thúc ở những luận tạng giáo quy mà chúng còn diễn tiến kinh qua những tác phẩm Abhidharma trước đó và bằng những trích tuyển toát yếu độc lập [independent summary digests] hay các bản chép tay có chú thích [exegetical manual]. Trong truyền thống Nguyên thủy, một vài nhà chú giải ở thế kỷ thứ năm sau công nguyên đã biên soạn những tác phẩm mới dựa vào các chú giải sơ kỳ vốn có từ vài nhà chú giải của thế kỷ thứ nhất sau công nguyên. Họ cũng tạo ra những toát yếu độc lập về các phép phân tích Abhidharma, nổi bật giữa các tác phẩm ấy phải kể là danh tác Visuddhimagga [Thanh tịnh đạo luận] của Phật Âm và Abhidhammāvatāra của Buddhadatta.Tuyệt phẩm Abhidhammatthasaṅgaha [Thắng pháp tập yếu] được Anuruddha trước tác vào thế kỷ thứ mười hai sau công nguyên mà về sau, truyền thống Nguyên thủy thường xuyên sử dụng cho công việc toát yếu giáo pháp Abhidharma.
Đầu thế kỷ thứ năm sau công nguyên, cũng là một thời kỳ nở rộ tinh hoa sáng tạo đối với Abhidharma của chư gia Nhất thiết hữu bộ. Trong những văn bản của thời kỳ này, là sự giải thích toát yếu [bộ Pháp tụ toát yếu, summary exposition] phối hợp cùng những phân tích giáo nghĩa triệt để và phối hợp với các cuộc phản biện bằng bút chiến nữa. Giáo thuyết [lúc bấy giờ] đã được tái tổ chức hợp với cấu trúc siêu tầng [abstract - trừu tượng] và hợp với cấu trúc lý luận nhiều hơn, và rồi, nó là sự đan dệt bất khả phân giữa các bảng phân loại danh mục sơ kỳ.
Ưu việt nhất ở trong những văn bản này dành cho cả hai chiều kích, bề ngang lẫn tác dụng của chúng trên các cơ cấu học thuật hậu kỳ, được gọi là Tỳ-bà-sa [Vibhāṣā], đây là tập đại thành giáo nghĩa phong phú nhất, được trình bày bằng ba sự tham duyệt khác biệt hiện còn trong tạng Hán dịch, tri thức tối hậu và vi diệu của luận bản này được mệnh danh là Đại tỳ-bà-sa (Mahāvibhāśā, T-1545). Bộ Luận Phát trí (Skt: Jñānaprasthāna) được tạo ra qua vài thế kỷ từ thế kỷ thứ 2 sau công nguyên trở đi, nên những chú giải đơn giản này có vẻ như là dựa trên một văn bản Abhidharma giáo quy sơ kỳ nào đó, trong đó, nó đã liệt kê một cách toàn diện những chủ trương của các nhóm hiện đang tranh luận qua mỗi điểm giáo nghĩa và nó luôn dứt khoát cho rằng những quan điểm này là của các trường phái đặc trưng và là của những bậc luận sư. Thay vì tranh luận theo quan điểm đơn giản, chánh thống thì tập đại thành Tỳ-bà-sa lại trình bày một định hướng bách khoa, đó là luôn hài lòng với tính cách bao quát toàn diện bằng phương pháp xếp loại mục lục phạm vi toàn diện của các chủ trương giáo lý bất đồng, Tập đại thành Tỳ-bà-sa trở thành là tàng xứ nghĩa luận [repository] của vài thế kỷ cho các nhánh đa dạng đại diện hoạt động học thuật của Nhất thiết hữu bộ, các nhánh này đã truyền bá luận bản ấy khắp vùng Đông bắc Ấn độ. Tuy nhiên, nhất là được kết hợp với những đồ chúng Nhất thiết hữu bộ Kashmir [Kế tân] bằng truyền thống, mà nhờ vậy, họ đạt được tôn hiệu Nhất thiết hữu Tỳ-bà-sa sư (Skt: Sarvāstivāda Vaibhāṣika).
Còn ba bản văn nữa đã soạn ra trong cùng thời kỳ này, và chúng đã được liên kết với giáo phái Đặc-địa-điều (Skt: Gandhāra) ở vùng Tây-bắc Ấn độ trình bày một cấu trúc sai biệt đáng quan tâm và kết quả là: Tác phẩm A-tỳ-đàm tâm luận (Skt: Abhidharmahṛdaya śāstra, T-1550) của Dharmaśreṣṭhin, tác phẩm A-tỳ-đàm tâm luận (Skt: Abhidharmahṛdaya śāstra,, T-1551) của Upasānta; và Tạp a-tỳ-đàm tâm luận (Skt: Miśrābhidharmahṛdaya śāstra, T-1552) của Dharmatrāta. [Tất cả] được trứ tác bằng thi kệ theo một thể loại tự thích tán ngôn thuộc thể văn xuôi đi kèm. Những bản văn này có chức năng như là những trích tuyển toát yếu về mọi khía cạnh giáo lý trình bày y theo cơ cấu hợp lý luận và phi trùng phục [non-repetitive - không lặp lại]. Ngược với các bản kê biên danh mục có hướng dẫn bằng pháp số ở sơ kỳ khéo thích hợp cho thuật trợ ký ức, thì ở đây, cả ba luận bản đã chọn ra một phương thức tổ chức mới lạ, nổ lực dung nhiếp các bản danh mục phân loại được xem là trọng yếu và dung nhiếp mọi giãng luận về các điểm giáo nghĩa đặc thù dưới những bộ phận có chủ đề chung.
Cơ cấu tổ chức mới này đã trở thành điển hình cho các bản văn thuộc về thời kỳ cuối của A-tỳ-đàm Nhất thiết hữu bộ.Thời kỳ cuối trong sự phát triển của luận tạng A-tỳ-đàm Nhất thiết hữu này bao hàm các bản văn mà chúng là những thành quả của chư tác gia đơn độc và họ đã chọn một kiểu tranh luận chú giải bằng bút chiến, trình bày một trạng thái tự nhận thức giáo phái được phát triển hoàn bị. Họ cũng không ngừng ứng dụng thuật biện giải tinh xảo để chứng minh cho chủ trương trường phái của chính mình và, sau cùng là bác bỏ các quan điểm của các học phái khác. Cho dù tiếp cận hay đối đầu bằng bút chiến, thế nhưng mục đích của họ hình như là làm khởi sinh tác dụng của các bộ pháp tụ được khéo tổ chức hay là các trích tuyển giáo pháp đối với thực thể hoàn chỉnh của Phật giáo.
A-tỳ-đạt-ma-câu-xá (Abhidharma-kośa, Kho tàng vi diệu pháp, T-1558), gồm có cả hai thể loại thi kệ, một là bổn tụng (kārikā) và hai là Thích luận (bhāṣya), tức là vừa có thích luận vừa có bổn tụng, do Thế Thân (Vasubandhu) mà luận phẩm ấy [tức là luận bản của Thế Thân] đã thành bản văn quan trọng nhất từ thời kỳ này, đã trở thành trung tâm cho các truyền thống về sau của các nhà nghiên cứu Abhidharma ở Tây tạng và khu vực Đông Á. Sau khi chọn vừa là thể loại cấu trúc Thích luận bằng thi kệ vừa là sự tổ chức thể tài A-tỳ-đàm tâm luận, A-tỳ-đạt-câu-xá đã trình bày một mô tả chi tiết hóa về giáo thuyết A-tỳ-đàm Nhất thiết hữu bộ bằng sự phê phán phong phú đối với chủ trương của bộ phái này trong Thích luận của mình. A-tỳ-đạt-ma-câu-xá đã thách thức câu trả lời từ một vài bậc luận sư thuộc về Nhất thiết hữu Kế-tân [Kashmir], những vị đã thử cố gắng phản bác những quan điểm phi Nhất thiết hữu đã nêu trong tác phẩm của Thế thân và tái thiết lập sự giải thích về những chủ trương Nhất thiết hữu Kế-tân chánh thống của mình. Những tác phẩm như, A-tỳ-đàm Ưng lý tùy thuận luận (?) (Skt: Nyāyānusāraśāstra - Ưng lý tùy thuận luận. 應理隨順論, T-1562 - [?] Engl: Conformance to Correct Principle, Y chiếu vào nguyên lý chính xác) và A-tỳ-đàm ước luận (minh đăng) thích (Skt: Abhidharmasamayapradīpikā. Eng: Illumination of Abhidharma, Sự tỏa sáng của A-tỳ-đàm, T-1563) được Saṅghabhadra trước tác và, Abhidharmadīpa (Illumination of Abhidharma, sự tỏa sáng của A-tỳ-đạt-ma) do một tác giả vô danh, người tự cho mình như là Dīpakāra (tác giả của Dīpa), đây là những tác phẩm cuối cùng của truyền thống A-tỳ-đàm Nhất thiết hữu đã còn sót lại.
Tạng luận A-tỳ-đàm
Sự phân tích trừu tượng là nguyên lý dẫn đạo cho chư luận Abhidharma, nó cũng trở thành đặc tính nổi bật về sự kiến giải giáo nghĩa của mình. Khuynh hướng dùng phân tích này, thậm chí, tính hiển nhiên ở các bảng danh mục vẫn hiện còn trong chư Kinh, được mở rộng ra trong Abhidharma nhằm hoàn thiện mọi thẩm nghiệm. Bằng những thuật ngữ rất giản đơn, Abhidharma nỗ lực mô tả toàn triệt và có hệ thống về mỗi loại thẩm nghiệm hợp lý của những thành phần cấu tạo tối hậu của nó. Abhidharma đã khảo sát sự thẩm nghiệm bằng quan điểm có phân tích phê phán, phá vỡ những khách thể phàm tưởng thô phù trong các yếu tố cấu tạo hay pháp [dharma] của chúng và làm hiển minh sự tương tác nhân quả giữa những tâm tố có đặc tính riêng lẽ này. Tuy nhiên, những phân tích ấy, không chỉ được thúc đẩy bằng sự quan tâm siêu việt thuần túy, hơn thế nữa, chúng còn được thúc đẩy bằng bản hoài tận độ chúng sinh ở chính trong cốt tủy tu hành của Phật giáo vậy. Sự phân tích này đã xác định được những tâm tố tất yếu của nó mà mỗi một dữ kiện đã nội hàm, nó có thể phân biệt giữa những tâm tố nào dẫn đến khổ đau sinh tử, và những tâm tố nào đã tham gia vào sự cáo chung của chúng. Chính tiến trình phân tích như thế được nhận ra bằng MINH SÁT, mà nhiệm vụ trong thực hành tôn giáo là chặt dứt các tâm tố nào có bản chất luân hồi và trao giồi những tâm tố thuần tịnh nào để đưa đến giải thoát.
Sự phân tích Abhidharma tập trung vào cách lọc sạch những tâm tố qua bản danh mục ấy và tập trung vào việc nghiên cứu những vấn đề đã nẩy sinh trong khi sử dụng chúng để lý giải sự thẩm nghiệm. Các bảng danh mục đơn giản về những tâm tố đã tìm gặp trong các Kinh sơ kỳ bao hàm các bản danh mục về ngũ uẩn (skhanda), mười hai xứ (āyatana), và mười tám giới hay mười tám tâm tố (dhātu), những danh mục này đã được quen dùng nhằm mô tả chúng sinh hoặc là các bảng danh mục tu tập và các phẩm loại mà chúng thường hay được thừa nhận là cái đã được xếp thành khối trong ba mươi bảy phẩm trợ đạo, tu tập những phẩm tính này khiến ta đạt đến quả vị giác ngộ. Bảng danh mục phân tích sơ kỳ ấy, còn bảo lưu trong các luận thư Abhidharma và hòa nhập trong các phạm trù phân loại bao hàm toàn diện và có tính giao thoa phức hợp nhằm để định rõ cả tướng đồng nhất của mỗi một tâm tố, lẫn mọi pháp thức hợp lý về sự tương tác năng duyên giữa chúng.
Những luận thư Abhidharma của nhiều bộ phái khác nhau đã trình ra các bảng danh mục khác biệt về các tâm tố có nhiều đến 75, 81, hay 100 phạm trù có đặc tính cá biệt nhất định. Chẳng hạn, Nhất thiết hữu bộ đã chọn một hệ thống 75 phạm trù căn bản [75 phạm trù có các tâm tố hay tác duyên căn bản] phân biệt theo bản chất cố hữu [Skt: svabhāva, tự tánh] của chúng, do vậy, chúng được xếp thành 5 lớp riêng biệt, 4 lớp ban đầu (Sắc [rūpa]—11; Tâm hay thức [citta]—1; những tâm tố thuộc về tâm hay tâm sở ([Skt: caitta. ]—46; và những tâm tố ở bên ngoài sắc và tâm [2] —14, (Skt: Cittaviprayuktasaṃskāra, tâm bất tương ưng hành), bốn lớp này bao gồm mọi tâm tố đã bị điều kiện hóa (Skt: saṃskṛta. pháp hữu vi), nghĩa là, những tâm tố tham gia vào sự tương tác nhân quả, chủ thể của sinh tử. Lớp thứ 5, bao gồm những tâm tố phi điều kiện hóa (Skt: Asaṃskṛta. Vô vi), nghĩa là, những tâm tố bất sinh, bất diệt [pháp vô lậu].
Qua phân tách Abhidharma, mọi dữ kiện thẩm nghiệm đều được lý giải như là sự khởi sinh do quan hệ tác dụng của một nhóm nào đó giữa những tâm tố này. Nhất là các dữ kiện của những tâm tố cá biệt đều đã được miêu tả hơn lên theo tiêu chuẩn đặc trưng cộng trợ, hoặc là các đặc tướng có bản chất luân lý của chúng như là thiện, phi thiện, bất định tướng, các sắc xứ của chúng [môi trường phát sinh] được xem là cảm nhiễm [tương ưng] với ba địa hạt [ba cõi, tam giới]: Dục giới, sắc giới và vô sắc giới; hoặc là phi tương ưng với bất cứ địa hạt nào, sự tương ưng của chúng với trạng thái cảm nghiệm khiến cho có sinh mệnh này có phải là hành tướng của những chúng sinh hay là không, là do sự tương quan năng duyên của chúng có tác dụng như là quả từ một vài nhóm của nhân hoặc dẫn đến một vài nhóm của quả. Hãy lấy một thí dụ, một sát na đặc biệt của một tâm tố, ý nghĩ hay niệm tưởng (saṃjña) chẳng hạn, có thể là thiện ở mặt luân lý, hành tướng của chúng sinh, tương ưng với dục giới và v.v...
Trong trường hợp khác, một dữ kiện có cùng một tâm tố niệm tưởng tương tợ, trong khi vẫn là hành tướng của chúng sinh, nhưng có thể là bất thiện, sát na ấy, tương ưng với sắc giới. Cho dù là đặc tánh của sát na không thuộc về thiện, không thuộc về ác [tức là sát na vô cảm, vô ký], thế nhưng mọi sát na bất kể đặc tính của chúng là gì, đều được chia phần trong bản chất tương tợ như niệm tưởng và, do đó, được đặt trong một phạm trù căn bản giống như vậy. Theo cách ấy, giản đồ phân loại có 75 tâm tố trình bày 75 phạm trù về đặc tánh cố hữu [tự tánh], mỗi một tâm tố của 75 phạm trù này lóe lên [nẩy sinh] một cách phi thường và lóe lên một cách trực nghiệm [experientially] trong vô số sát na. Qua thực hành các phân tích triệt để theo quy luật này về những cấu tạo tâm, người ta có thể cho rằng kinh nghiệm là có thật, những nguyên tố làm nhân cho khổ đau xa hơn nữa, có thể được loại trừ, thế thì sự góp phần [thẩm nghiệm] này hướng về giải thoát đã có thể được độc lập và có thể được trau giồi vậy.
Bảng phân tích kinh nghiệm Abhidharma triệt để ấy gây nên một tập hợp lớn những tranh luận về giáo nghĩa, đã vạch đường ranh giữa các bộ phái khác nhau. Nhiều cuộc tranh luận này đều được nhắm đến bởi những bất đồng cơ bản gọi là bản thể, nhất là tương quan đến cái cách mà trong đó các nguyên tố đặc sắc cấu thành thể nghiệm là thực hữu, và nhất là những động lực tương tác của chúng hay những tương quan năng duyên cũng đều thật hữu. Những mối quan tâm về bản thể như vậy đã kích hoạt bảng danh mục của các tâm tố sơ kỳ trong chư Kinh, và chúng được người ta đã quen dùng để chi trì giáo pháp vô ngã (ātman) nền tảng của Phật giáo, bằng cách minh chứng rằng, cái gọi là vô thường, bất biến, ngã tự hữu có thể được chứng minh.
Tiêu điểm quan tâm về bản thể trong các luận thư Abhidharma được chuyển di từ các khách thể thô phù, cái ngã như vậy, sang những tâm tố hay các pháp (dharma) mà những khách thể này đã đuợc nhận thức là tồn tại. Có lẽ bản thể đặc sắc nhất đã được chư gia Nhất thiết hữu bộ đề xuất, “những người tuyên bố [tất cả có] sarvam asti, nhất thiết hữu” hay nhất thiết hiện hữu vậy [everything exist]. Sau khi bắt đầu từ giáo lý VÔ THƯỜNG (ANITYA) nền tảng của Phật giáo, họ đề nghị rằng, những tâm tố cấu thành cảm nghiệm là có thật giống như là những thực thể riêng và thực hữu, chúng sanh diệt trong khoản thời gian cực nhanh đơn độc. Thế nhưng một quan điểm về cảm nghiệm như thế với tư cách là một sự sắp hàng của những sát na tâm chỉnh thể, có thể nên xem như là chính chúng tạo thành sự tương tục và, thật vậy, bất cứ sự tuơng tác duyên hệ nào giữa những tâm tố có cá tính cá biệt này đều không thể nghĩ bàn. Các tâm tố của một sát-na, sự hiện hữu của chúng được giới hạn ở khoảng khắc đó, có lẽ chúng không bao giờ là điều kiện hay duyên quyết định cho sự sinh khởi của các tâm tố sau vì chúng chưa hiện hữu, và kế đến, các tâm tố của sát-na sau phải sinh khởi vô nhân, bởi vì các nhân trước hiện hữu quá ngắn. Nhằm hộ trì cho cả giáo thuyết Phật giáo về vô thường lẫn quá trình năng duyên, mà quá trình này thật cần thiết để khởi sinh tác dụng cho thường nghiệm, chư gia Nhất thiết hữu bộ lại đề nghị một phương thức lý giải mới nữa về hữu thể. Họ tuyên bố, mỗi một tâm tố vừa bị một bản chất [nội tại cố hữu] đặc trưng hóa mà bản chất này hằng hữu trong ba thời [tam thế thật hữu] và vừa có luôn cả sự hoạt động hoặc tác dụng thuộc về nhân nữa, mà tác dụng này sinh và diệt là do ảnh hưởng ở trong cái khoảng của sát-na hiện tại đó. Duy nhất những tâm tố này đã bị cả bản chất nội tại và lẫn cái công năng vận hành như vậy quyết định mà hai tự tính ấy hiện hữu như là những thực thể (dravya, thực chất); còn những khách thể hỗn hợp của thường nghiệm hay sự thể nghiệm phổ quát lại thiếu vắng bản chất nội tại chỉ hiện hữu như là những cấu trúc tâm hay những chức năng lâm thời [Skt: prajñapti: Thi thiết 施設, kiến lập giả danh 建立假.] mà thôi. Chư gia Nhất thiết hữu bộ tuyên bố, cái mô thức này duy trì giáo lý vô thường của Phật giáo, vì mỗi sự vận hành của tâm tố ấy luôn sinh và diệt, và cũng chỉ như vậy mới lý giải được tính tương tục và quá trình duyên dĩ sinh, bởi vì các tâm tố hiện hữu như là bản chất cố hữu trong cả ba thời. Thế thì, những tâm tố có ở quá khứ (hay tương lai) như vậy, có thể gây ảnh hưởng đến sự khởi sinh của các tâm tố sau qua các nhóm tác dụng thuộc về nhân sai biệt [tác dụng theo nhân dĩ sinh].
Mô thức về bản thể của Nhất thiết hữu bộ này đã tạo nên sự chống đối kịch liệt và đã bị một vài bộ phái bác bỏ (chẳng hạn Bộ phái nguyên thủy [Theravāda] và chư gia bộ phái Thí dụ [dārṣṭānika, Thí dụ bộ sư 譬喻部師]) bài bác, họ tuyên bố rằng, các tâm tố chỉ có bản chất cố hữu trong hiện tại và không thể hiện hữu trong quá khứ và tương lai. Theo chư gia Thí dụ bộ sư, tự tánh hay bản chất cố hữu không thể bị phân biệt do sự vận hành của một tâm tố nào cả. Thực ra, một tâm tố hiện hữu chính là sự vận hành của nó, và cảm nghiệm không gì khác hơn ngoài tiến trình tương quan duyên hệ bất tuyệt mà thôi. Sự vỡ vụn [biến hoại] của tiến trình tương quan duyên hệ này trong các tâm tố có cá tính nhất định thuộc về bản chất cố hữu đơn lẽ và hiệu năng duy nhất thì không là gì cả, mà chỉ là một giả lập danh hay là sự thi thiết của tâm mà thôi.
Những công trình lý giải bản thể như vậy, đã phát sinh các giáo thuyết phức hợp về cái năng duyên [điều kiện tác dụng-conditioning] và các hình thể học về nhân và duyên rất khó hiểu. Có bằng chứng cho vài phân loại đối nghịch về các nhân và duyên cá biệt, mỗi sự phân loại này tạo nên một phương cách đặc trưng về sự tương tác năng duyên giữa những phạm trù đặc trưng của các tâm tố: Chẳng hạn, chư gia Nguyên thủy Phật giáo nêu lên một bộ phận 24 duyên; chư gia Nhất thiết hữu bộ, [đề nghị] 2 bộ phận của 4 duyên và 6 nhân tách rời nhau. Ngoài ra, các hệ thống hình thể học về nhân và duyên khác biệt còn đang chứng minh. Các trường phái này vẫn không đồng ý về thể thức gây nhân bị những nhóm đặc trưng này sai sử. Chư gia Nhất thiết hữu bộ đã thừa nhận rằng, chắc chắn các nhân và duyên này phát sinh trước các quả của chúng, một ít các bộ phái khác cố gắng nêu ra một cái duyên dĩ sinh [amitate conditioning-điều kiện tác dụng khiến tạo ra sinh mệnh] đóng vai trò bổ trợ, khởi sinh đồng thời với quả của chúng [học thuyết nhân quả đồng thời].Tuy nhiên, chư gia Thí dụ bộ chỉ cho phép là cái tạo ra quả có tính tương tục mà thôi; một nhân phải luôn luôn đi trước quả của nó. Qua những cuộc tranh luận về học thuyết nhân quả này, bản chất về cái năng duyên khiến cho có sinh mệnh hay là cái duyên dĩ sinh, và học thuyết duyên sinh này có ý định lý giải cái năng duyên khiến cho có sinh mệnh ấy, mà một cách tự nhiên đã thành là những thể tài cốt lõi, bởi lẽ, vai trò tối yếu của chúng nằm trong tất cả Lý và sự của Phật giáo, tức là, hành vi có năng lực đem đến hệ quả hoặc là NGHIỆP (KARMA) vậy.
Sự tra cứu thuộc về các cuộc tranh biện giáo nghĩa này đã chiếm lĩnh được một vị thế quá vĩ đại chưa từng có trong chư tạng luận Abhidharma hậu kỳ, vị thế ấy đã đòi hỏi sự phát triển những phương pháp tranh luận quy mô hơn nữa nhằm ứng dụng triệt để cả hai mặt, vừa trích dẫn Thánh điển mang tính chứng thực và vừa ứng dụng những tra cứu xứng lý. Qua những những điển hình sơ kỳ về các cuộc luận chứng như vậy, các tra cứu hợp lý ấy chưa có được năng lực kiểm chứng độc lập và chỉ được xem như là có giá trị trong việc kết hợp với những trích dẫn y Kinh mang tính chứng thực mà thôi. Thế nhưng việc y chỉ này đã kích phát nhanh sự phát triển KHOA CHÚ GIẢI VĂN BẢN CỔ có hệ thống [systematic hermeneutics - khoa thông diễn học có hệ thống], mà nó hẳn hòa giải được những lập trường xung đột bằng cách đánh giá tính hữu hiệu và thẩm quyền về những tiểu đoạn y cứ trên Kinh vốn làm tăng thêm lý chứng [passage] và vốn xác định phương pháp chính xác về khoa THÔNG DIỄN HỌC của mình nữa.
Nói chung, các nguyên lý luận giải đã áp dụng, đều bao quát toàn bộ hạn mục và rất hài hòa; bất cứ sự tuyên bố nào cũng đều được cho thấy là y giáo phụng hành, hoặc là y theo kinh nghiệm giác ngộ của đức Phật [mà trạnh thái ấy] đã được thừa nhận là sự thật. Các hệ thống trật tự được tạo ra đã kết hợp lại các đoạn kinh bị mất tính mạch lạc thành nhất quán, bằng cách đánh giá chính xác chúng một cách đặc thù. Và cuối cùng, các hệ thống trật tự được tạo ra đã hợp lại những tiểu đoạn có từ cú sai biệt trong Kinh văn và cả trong các bản văn Abhidharma được cho là biểu trưng những bối cảnh bất đồng từ cái mà có thể đã được Phật giáo thể hiện rồi, thành nhất quán. Đáng kể nhất là sự so sánh song đối của nó giữa bản thể học và nhận thức luận Phật giáo hậu kỳ thành kỷ thuật khảo đính văn bản cổ [thông diễn học], nhờ thế mà những tiểu đoạn hay một vài bản văn đã được đánh giá để mang nghĩa hiễn ngôn biểu đạt chân lý tuyệt đối (nītārtha - liễu nghĩa) hay thực tại, trong khi các bộ phái khác vẫn còn đang trong tư biện mịt mờ (neyārtha - bất liễu nghĩa), chỉ thuần biểu đạt chân lý quy ước (tục đế) mà thôi. Và đối với các bản văn Abhidharma, chư Kinh chỉ đơn thuần là hàm ngôn và trong trường hợp có yêu cầu lý giải xa hơn, vậy thì chỉ có thể được củng cố bằng tạng thư Abhidharma hiễn ngôn mà thôi. Trong các bản văn abhidharma hậu kỳ, các cuộc tra cứu xứng lý đã xem như là hoàn mãn, và các sở chỉ y trên Kinh mang tính chứng thực này, đã thành là cơ sở chung hay chân lý hiễn nhiên tách rời nguyên văn [decontextualized common places], được trích dẫn chỉ là nhằm xác chứng giá trị sử dụng những thuật ngữ then chốt trong ngữ cảnh Abhidharma mà thôi. Những tra cứu hợp lý đã bắt đầu được khẳng định bằng tiêu chuẩn phi pháp điển theo tính độc lập, chẳng hạn như tính nhất quán nội tại [internal consistency], và tính lý luận chính xác, chẳng hạn như sự biện hộ lý do sai lầm. Phân tích giáo nghĩa và những phương pháp tranh luận đã phát triển trong các tạng luận Abhidharma đã xác định quá trình diễn biến đối với chủ trương học thuật của Phật giáo Ấn-độ hậu kỳ, đã tinh luyện và hoằng dương di sản Abhidharma nhờ cộng đắc cùng những cảnh quan giáo nghĩa mới, nhờ cộng đắc cùng những kỹ thuật luận chứng tinh xảo tuần tự tăng dần lên và một ngữ cảnh rộng rãi cho cả nội bộ và ngoại bộ Phật giáo nữa.
Ghi chú:
[1]
1. Tập dị môn túc luận (zh. 集異門足論, sa. saṅgītiparyāya): bao gồm những bài giảng theo hệ thống số, tương tự như Tăng chi bộ kinh;
2. Pháp uẩn túc luận (zh. 法蘊足論, sa. dharmaskandha): gần giống như Phân biệt luận trong A-tì-đạt-ma của Thượng toạ bộ;
3. Thi thiết túc luận (zh. 施設足論, sa. prajñaptiśāstra): trình bày dưới dạng Kệ những bằng chứng cho những sự việc siêu nhiên, thần bí;
4. Thức thân túc luận (zh. 識身足論, sa. vijñānakāya): nói về các vấn đề nhận thức. Có vài chương nói về những điểm tranh luận giống Luận sự (pi. kathāvatthu), Giới luận (pi. dhātukathā) và Phát thú luận (zh. paṭṭhāna) trong A-tì-đạt-ma của Thượng toạ bộ;
5. Giới thân túc luận (zh. 界身足論, sa. dhātukāya): gần giống Giới thuyết luận (pi. dhātukathā) của Thượng toạ bộ;
6. Phẩm loại túc luận (zh. 品類足論, sa. prakaraṇa): bao gồm cách xác định những thành phần được giảng dạy và sự phân loại của chúng;
7. Phát trí luận (zh. 發智論, sa. jñānaprasthāna): xử lí những khía cạnh tâm lí của Phật pháp như Tùy miên (zh. 隨眠, sa. anuśaya), Trí (智, sa. jñāna), Thiền (禪, sa. dhyāna) v.v… (xem thêm Tâm sở) (theo CHÂN NGUYÊN / bản điện tử). - N.D.
[2] cittaviprayuktasaṃkāra : Hành không tương ưng với tâm. Tức là các căn, tuy nằm trong tâm sở, nhưng có khuynh hướng tăng thượng, không bị sắc pháp ô nhiễm. Như: tín, tinh tấn, niệm, định, tuệ (Lớp Câu-xá / Phạn-Hán-Anh-Pháp đối chiếu do thầy TUỆ SỸ dạy).
*
Dịch Việt: Pháp Hiền cư sĩ (http://www.phatviet.com/)
*
Bà Collett Cox là Giáo sư khoa Phật học và Văn học Sanskrit, Đại học Washington (Washington University), Hoa Kỳ.
*
Trong những thế kỷ sau Phật diệt độ, với sự hiện diện của những cộng đồng tu sỹ [tăng đoàn] đã ổn định này, từ nơi đây, các hành nghi mới về tu tập [praxis] tôn giáo, những phương pháp về sự truyền đạt và chú giải giáo lý được khởi sinh. Trong bối cảnh có tổ chức nhiều ấy, những vị đệ tử Phật bắt đầu kiểm tra trở lại các truyền thống được truyền thừa và phát triển những phương thức tổ chức mới, mà nó hẳn đã làm hiển ngôn ý nghĩa nền tảng của mình và tạo thuận duyên cho sự truyền đạt trung thực của mình nữa. Tuy bắt đầu bằng một phương thức soạn thảo dựa vào sự thật những giáo thuyết được thừa nhận rộng rãi, thế nhưng sự nghiệp học thuật này ngay sau đó đã dẫn đến các phát triển giáo nghĩa theo phương hướng mới và các phát triển theo chính văn, với lại sự nghiệp này đã trở thành trung tâm điểm cho một hành nghi mới của đời sống tu viện học thuật.
Những thành quả học thuật này, đã thành là truyền thống đáng trân trọng bằng thẩm quyền của chính họ, rốt lại, Abhidharma, có thể làm mờ đi những pháp thoại của Phật-đà, của chư đệ tử Ngài, như là vị trọng tài [vô tư] của thánh giáo và minh định cả phương pháp chú giải lẫn các thể tài quan yếu, sở y cho những nghiên cứu Phật giáo Ấn-độ hậu kỳ.
A-tỳ-đàm, ý nghĩa và nguồn gốc.
Sự nghiệp học thuật này được gọi là A-TỲ-ĐÀM, (Pāli: Abhidhamma), đây là một thuật ngữ đa nghĩa quen dùng để chỉ cho những kỹ thuật mới về chú giải giáo lý, chỉ cho bộ phận hay thân của các bản văn mà sự chú giải này đã sinh trưởng, sau rốt là chỉ cho [trạng thái] khảo sát lấy phân tích làm trọng tâm [the crucial discriminating insight, tuệ minh sát / tuệ quyết trạch] đã được tinh luyện qua sự chú giải giáo lý và đem ra ứng dụng trong các thực hành tôn giáo của mình.
Theo các nguồn truyền thống, thuật ngữ Abhidharma có hai cách hiểu: “Tương ưng với (abi) Pháp (dharma) hoặc là tột bậc [vi diệu], hay vượt trội (abhi) Pháp (dharma) - Pháp siêu việt". Đương nhiên, đối tượng phân tích Abhidharma là Pháp (dharma) như đã hiện thân trong những pháp thoại của Phật đà và chư đệ tử của Ngài. Tuy nhiên, Abhidharma không chỉ quy kết hay tóm tắt giáo pháp của các kinh (sūtra), mà hơn thế, nó còn cải tổ nội dung và hiển đạt hàm ngôn của Kinh bằng luận giải nữa. Trong Abhidharma, nội dung đặc trưng của những bản kinh riêng lẻ khác nhau đã được tách ra và tái tổ chức cho phù hợp với tiêu chuẩn phân tích mới, nhờ vậy mà nó có thể cho phép ta nhận thức được thông điệp chân thật của các Kinh điển cá biệt ấy. Thông điệp chân thật như vậy, như ta thấy ghi lại trong Tạng luận này, bao hàm những dữ kiện và các bộ phận cấu thành nối kết lại để thiết lập tất cả thẩm nghiệm. Sự phân tích này, lần lượt giúp ta nhận ra được giữa các tâm tố nhiễm ô [phiền não - vô minh] là cạm bẩy gài ta vào tiến trình tái sinh [luân hồi] và các tâm tố giải thoát [pháp vô lậu] dẫn ta vào Phật tuệ. Cuối cùng, những tâm tố nhiễm ô và giải thoát đã được nhận thức rõ ràng rồi, thì lộ trình tu hành chính xác hẳn sẽ hiển lộ. Do vậy, Abhidharma không chỉ là sự chú giải mang tính học thuật đơn thuần mà nó còn là tạng luận chứa đựng huyền nghĩa cứu độ chúng sinh [những chú giải thuộc về thần học cứu rổi thế gian, soteriological exegesis], rất cần cho lộ trình tu tập đem lại tính hiệu quả rõ ràng.
Các nguồn truyền thống không nêu ra cho ta biết những mô tả nhất quán nào về lai lịch của phương pháp Abhidharma hoặc sự tập thành của những bản văn thuộc về nó cả. Một vài mô tả thuộc về truyền thống cho rằng sự tạo thành của các văn bản Abhidharma có thể vào thời điểm của cuộc kết tập [hội đồng trưởng lão] lần thứ nhất ngay sau khi đức Phật diệt độ, lúc bấy giờ, giáo thuyết của Ngài được trùng tuyên và ghi lại thành Tam tạng thánh điển: Kinh (sūtra), Luật (vinaya), Luận (mātṛkā hay abhidharma). Bởi vậy, các nguồn truyền thống dứt khoát cho rằng, Abhidharma là của chính Phật. Qua những luận tạng Abhidharma độc lập này, câu hỏi về tác giả và tác quyền là ai, vẫn luôn là một thể tài đáng tranh luận trong thời gian tới, bằng tính chính xác nhất.
Mặc dù, nhiều TRƯỜNG PHÁI PHẬT GIÁO CHÁNH THỐNG (MAINSTREAM BUDDHIST SCHOOLS) đã thừa nhận thẩm quyền của những bản văn Abhidharma này và đưa chúng vào trong các tạng Kinh của mình như là lời Phật. Thế nhưng vài trường phái không chấp nhận thẩm quyền của luận thư này, họ tuyên bố là, những tạng thư Abhidharma, do các thế gian sư [human teachers] phạm sai lầm soạn ra. Các luận thư Abhidharma độc lập đã được biên soạn ở một thời kỳ tối thiểu là khoảng bảy trăm năm (khoảng thế kỷ thứ hai hoặc thứ ba trước công nguyên, đến thế kỷ thứ năm sau công nguyên). Việc xuất hiện và sau cùng là sự phát triển của chúng xảy ra đồng thời với hiện tượng phân phái phát sinh trong cộng đồng Phật giáo sơ kỳ. Những dị biệt giáo nghĩa giữa những bộ phái khác nhau, mà một đôi phần, đã là kết quả tự nhiên của những trực hệ đặc thù thuộc về việc truyền thừa nguyên văn, mà chúng đã được gạn lọc qua các cuộc tranh luận học thuật và đã được thuyết minh tường tận bằng công trình biên soạn các tác phẩm lý giải Abhidharma độc lập.
Theo quan điểm học thuật dựa trên các nguồn dành cho thể loại luận thư Abhidharma độc lập này, người ta đã chia phần ra cho hai giả thuyết, nghĩa là, một trong hai giả thuyết ấy đã tìm ra được nền tảng sở y qua đặc tính cấu trúc [structural characteritic] của các bản văn Abhidharma. Giả thuyết thứ nhất đặt trọng tâm vào việc thực hiện những khuôn mẫu có hệ thống tham chiếu chính xác hoặc những biểu đồ phân loại (mātṛkā) về mọi thể tài đã thiết lập trong giáo lý truyền thống, mà sau đó, chúng được phối trí có trật tự theo cả hai tiêu chuẩn: Pháp số (numeric, thuộc về pháp số) và tánh (qualitative, phẩm loại). Giả thuyết thứ hai nhấn mạnh đến những giảng luận (dharmakathā, pháp luận) qua hình thái vấn đáp để nỗ lực thấu triệt tính phức tạp hay những điểm còn ẩn ngôn trong Kinh. Cả hai đặc tính cấu trúc này gợi lên một tiến trình tiêu biểu nhờ vào những gì mà các luận thư Abhidharma độc lập tạo nên: Một phát thảo khuôn mẫu dùng làm ký lục [record] hoặc có thể là những trưc giảng mà trong đó các yếu điểm của chư Kinh sau đó đã được thuyết thành chi tiết qua kỷ thuật hỏi và đáp liên quan đến giáo pháp.
Bất chấp giả thuyết nào trình bày xác đáng hơn về nguồn gốc những luận thư Abhidharma độc lập, [bởi vì] phương thức chú giải kép này đã phản ảnh một xu thế bền vững trong truyền thống Phật giáo, từ sơ kỳ trở đi, hướng đến cách trình bày bằng phân tích qua những phạm trù phân loại và hướng đến việc bổ xung chi tiết bằng diễn đạt phân tiết mạch lạc qua kỷ thuật vấn đáp. Cái cần thiết là quán niệm Pháp hay ghi nhớ giáo thuyết một cách rõ ràng, thúc đẩy công dụng các bảng danh mục phân loại như là một cẩm nang khéo giúp trí nhớ, và vài bản kinh đã miêu tả phương pháp phân loại này như là một cách tóm tắt những tinh hoa giáo pháp và ngăn ngừa được sự bất đồng quan điểm [averting dissention]. Các bản Kinh khác đã diễn tiến hầu như toàn là những chú giải bằng lời, ở đây, pháp ngữ cô đọng của Phật đã được phân tích toàn diện qua tiến trình của luận sự hay chất ngữ [hỏi, interogation] và Pháp tụ [exposition, lý chứng].
Cả hai phương pháp này đã chứng thực đầy đủ trong tạng Kinh, đã được khai triển thành công trong những tạng luận học thuật độc lập tiếp theo sau đó, tuy nhiên, một ít luận bản trong số này không thể liệt vào tạng Abhidharma có tính pháp loại, giáo quy, và cũng không thể liệt vào những luận tạng có tính chất Abhidharma được. Chẳng hạn, sự tập thành những văn bản (khuddakaṭipiṭaka—Tiểu bộ kinh) tổng hợp về giáo quy của Trưởng lão bộ (Theravāda, Nguyên thủy bộ phái), trong đó có đến hai văn bản sử dụng các phương pháp như vậy mà chúng vẫn không được công nhận là các bản văn “Abhidharma” hợp tiêu chuẩn. Một trong Tiểu bộ kinh là bản Paṭisambhidāmagga (Path of Discrimination, Vô ngại giải thoát đạo kinh) chứa đựng những giảng giải cô đọng về các điểm giáo pháp có cấu trúc phù hợp với bảng liệt kê danh sách đề mục, (Skt: Mātṛkā. Pāli: Mātikā. H: Luận mẫu 論母) còn bản kinh Phân biệt diễn thuyết (Nirdeśa. Pāli: Niddesa. H: 分別演說) thì bao hàm sự chú giải bằng việc tập thành thi kệ sơ kỳ, ngay cả thánh điển Kinh tập cũng vậy (Pāli: Suttanipāta. H: 經集, chính là quyển kinh thứ 24 trong Nam Truyền Đại Tạng). Thật thế, điểm dứt khoát minh định về nguồn gốc dành cho Abhidharma với tư cách là một luận tạng độc lập thuộc về Kinh điển chánh văn, phản ảnh duy nhất bối cảnh truyền thống hậu kỳ mà chính truyền thống này đã phong danh hiệu cho vài bản văn với tên gọi là Abhidharma, ngược lại với [hồng danh] các Kinh, hoặc có thể có những tác phẩm chú giải [tạng Pháp tụ] sớm hơn nữa đã chia phần cùng các đặc tính tương tợ như vậy, sau một biến trình lãng quên dài hạn.
Những bản văn A-tỳ-đàm
Những mô tả thuộc về truyền thống của các bộ phái Phật giáo sơ kỳ Ấn độ gợi cho biết rằng, ít ra một vài bộ phái đã chia phần rồi với các tuyển tập theo chánh văn, và nhiều các bộ phái đã truyền lưu những tạng luận Abhidharma độc lập của riêng mình nữa. Đường Huyền Trang, nhà Phật giáo Trung hoa, đã hành hương đến Ấn độ vào thế kỷ thứ bảy sau công nguyên (khoảng năm 600-664 sau công nguyên), vị ấy được báo cho biết để sưu tập một khối lượng văn bản đáng kể cũng nhiều như bảy bộ phái Phật giáo chánh thống. Hầu như sự kiện này chắc chắn bao gồm luôn cả những bản văn thuộc về Abhidharma giáo quy [kinh tạng] đại diện cho những bộ phái khác nhau cũng nên. Tuy nhiên, chỉ có hai tạng giáo quy, là được toàn vẹn, đại diện cho Phật giáo Nguyên thủy và Đại chúng bộ mà thôi, còn vài ba bản nữa, nói lên sự gia nhập có quan hệ giáo phái chưa xác định [undetermined sectarian affiliation], tất cả đều được bảo lưu. Cho dù các tạng Abhidharma của một trong hai bộ phái ấy chứa đựng đến bảy bản văn đi nữa, thì các tạng giáo quy riêng lẻ này chắc không thể nào được đồng nhất với tạng giáo quy khác.
Tuy nhiên, công cuộc tra cứu kỹ lưỡng về vài bản văn từ mỗi một tạng và từ sự so sánh với những tư liệu Abhidharma khác hiện còn, chúng đã hiển lộ những điểm tương đồng trong các bảng danh mục phân loại cơ bản, trong cấu trúc chú giải và trong những thể tài đã được diễn giãng. Những tương đồng này, hoặc là gợi lên điểm tiếp xúc giữa các nhóm tác tạo và truyền lưu các bản văn ấy, hoặc là gợi lên nền tảng chung của các chú giải giáo thuyết và thậm chí tư liệu chính văn đã có thể xãy ra trước cả sự phát sinh của các bộ phái phân kỳ.
Tạng Abhidharma giáo quy của bộ phái Nguyên thủy này, chỉ còn duy nhất một tạng viết bằng tiếng Pāli, gồm có bảy văn bản như sau:
1. Vibhaṅga [Phân biệt]
2. Puggalapañnati [Nhân thi thuyết luận]
3. Dhātukathā [Chất ngữ]
4. Dhammasaṅgani [Pháp tụ]
5. Yamaka [Song đối]
6. Paṭṭhāna [Vị trí]
7. Kathāvatthu [Luận sự]
Tạng giáo quy Abhidharma của Nhất thiết hữu bộ, cũng có bảy bản văn hiện chỉ tồn tại trong Hoa dịch:
1. Saṅgītiparyāya [Tập dị môn túc luận, T-1536]
2. Dharmaskandha [Pháp uẩn túc luận, T-1537]
3. Prajñāptiśāstra [Thi thiết túc luận, T-1538]
4. Dhātukāya [Giới thân túc luận, T-1540]
5. Vjñākāya [Thức thân túc luận, T-1539]
6. Prakaraṇapāda [Phẩm loại túc luận, T-1541, 1542]
7. Jñāprasthāna [Phát trí luận, , T-1544, 1543] [1]
Nhiều bản văn Abhidharma sơ kỳ hiện còn trong dịch phẩm tiếng Hoa, chúng hầu như đại diện cho những văn bản giáo quy Abhidharma của các bộ phái khác còn đến giờ: Chẳng hạn, Śariputrābhidharmaśāstra (Xá- lợi-phất A-tỳ-đàm tâm luận - Đại chánh tạng, 1548) có thể đã có liên hệ rồi đến bộ phái Vibhajyavāda, [phân biệt luận] hay là Saṃmatīyaśāstra (Đại chánh tạng, 1649), đã được liên kết với bộ phái Saṃmatīya nhờ tên kinh của nó, và cũng vậy mà nó đã phối hợp cùng bộ phái Vātsīputrīya [Độc tử bộ] cũng nên.
Vì việc thiếu chứng cứ lịch sử đối với niên đại chính xác của các luận thư Abhidharma hiện còn, tạm thời các học giả đã đề xuất các bảng niên đại có quan hệ, chủ yếu dựa vào những tiêu chuẩn theo hình thái nội tại để giả ước sự phức hợp của cơ cấu tổ chức và phương pháp chú giải của chúng đang tăng trưởng. Người ta có được kết luận là, những bản văn Abhidharma ở thời kỳ sớm nhất mang theo mình các nét rất tương cận với chư Kinh và đều được cấu trúc với những chú giải ngang qua toàn kinh điển hoặc ngang qua các tạng Kinh và chúng đã được phối trí phù hợp với các bảng danh sách phân loại.
Bản Vibhaṅga [Phân biệt] và Puggalapññatti [Nhân thi thuyết luận] của chư gia Nguyên thủy, bản Saṅgītiparyāya và bản Dharmaskandha của chư gia Nhất thiết hữu bộ cũng minh dụ những đặc tính như vậy. Bộ tiếp đến của các bản văn Abhidharma đã phơi trần sự giải thoát khỏi bộ khung hạn hẹp của những chú giải về chư kinh riêng lẻ, tức là bằng cách chọn một quan điểm siêu việt hơn [quan điểm trừu tượng, abstract stance] để nhiếp tập tinh hoa kinh điển [chất liệu giáo lý] từ những nguồn đa dạng dưới bộ khung phân tích trừu tượng về những phạm trù mà chúng thường được tạo ra một cách mới lạ. Giai đoạn trung gian này hẳn đã bao quát luôn cả năm luận bản hiện đang tồn tại trong bộ phái Nguyên thủy và trong các luận tạng Abhidharma của Nhất thiết hữu bộ. Văn phong diễn giải bằng vấn đáp, đã có được kết cấu và công thức căn bản nhiều hơn trong những văn bản Abhidharma ở giai đoạn trung gian này, thậm chí vẫn còn trong các văn bản Abhidharma sơ kỳ. Những thành quả tối hậu hay quyết định trong tiến trình siêu việt [trừu tượng hóa] này, thật sự đều là các tạng luận độc lập, triển khai sức sáng tạo được ký hiệu hóa [mã hóa] bằng thuật ngữ kỷ thuật và nghệ thuật khảo đính [danh pháp học] giáo nghĩa. Một vài văn bản, cụ thể là luận điển Kathāvatthu [Luận sự] của chư gia Nguyên thủy Phật giáo và luận điển Thức thân [Vjñānakāya] của chư gia Nhất thiết hữu bộ, cả hai đều đã diễn ra một nhận thức có những nét khác biệt trong việc kiến giải giáo nghĩa và diễn ra các liên kết bộ phái [bè phái], mặc dù họ không chọn kiểu bút chiến được triển khai trong nhiều tác phẩm Abhidharma về sau.
Thành phần cấu tạo của các tạng luận Abhidharma không phải kết thúc ở những luận tạng giáo quy mà chúng còn diễn tiến kinh qua những tác phẩm Abhidharma trước đó và bằng những trích tuyển toát yếu độc lập [independent summary digests] hay các bản chép tay có chú thích [exegetical manual]. Trong truyền thống Nguyên thủy, một vài nhà chú giải ở thế kỷ thứ năm sau công nguyên đã biên soạn những tác phẩm mới dựa vào các chú giải sơ kỳ vốn có từ vài nhà chú giải của thế kỷ thứ nhất sau công nguyên. Họ cũng tạo ra những toát yếu độc lập về các phép phân tích Abhidharma, nổi bật giữa các tác phẩm ấy phải kể là danh tác Visuddhimagga [Thanh tịnh đạo luận] của Phật Âm và Abhidhammāvatāra của Buddhadatta.Tuyệt phẩm Abhidhammatthasaṅgaha [Thắng pháp tập yếu] được Anuruddha trước tác vào thế kỷ thứ mười hai sau công nguyên mà về sau, truyền thống Nguyên thủy thường xuyên sử dụng cho công việc toát yếu giáo pháp Abhidharma.
Đầu thế kỷ thứ năm sau công nguyên, cũng là một thời kỳ nở rộ tinh hoa sáng tạo đối với Abhidharma của chư gia Nhất thiết hữu bộ. Trong những văn bản của thời kỳ này, là sự giải thích toát yếu [bộ Pháp tụ toát yếu, summary exposition] phối hợp cùng những phân tích giáo nghĩa triệt để và phối hợp với các cuộc phản biện bằng bút chiến nữa. Giáo thuyết [lúc bấy giờ] đã được tái tổ chức hợp với cấu trúc siêu tầng [abstract - trừu tượng] và hợp với cấu trúc lý luận nhiều hơn, và rồi, nó là sự đan dệt bất khả phân giữa các bảng phân loại danh mục sơ kỳ.
Ưu việt nhất ở trong những văn bản này dành cho cả hai chiều kích, bề ngang lẫn tác dụng của chúng trên các cơ cấu học thuật hậu kỳ, được gọi là Tỳ-bà-sa [Vibhāṣā], đây là tập đại thành giáo nghĩa phong phú nhất, được trình bày bằng ba sự tham duyệt khác biệt hiện còn trong tạng Hán dịch, tri thức tối hậu và vi diệu của luận bản này được mệnh danh là Đại tỳ-bà-sa (Mahāvibhāśā, T-1545). Bộ Luận Phát trí (Skt: Jñānaprasthāna) được tạo ra qua vài thế kỷ từ thế kỷ thứ 2 sau công nguyên trở đi, nên những chú giải đơn giản này có vẻ như là dựa trên một văn bản Abhidharma giáo quy sơ kỳ nào đó, trong đó, nó đã liệt kê một cách toàn diện những chủ trương của các nhóm hiện đang tranh luận qua mỗi điểm giáo nghĩa và nó luôn dứt khoát cho rằng những quan điểm này là của các trường phái đặc trưng và là của những bậc luận sư. Thay vì tranh luận theo quan điểm đơn giản, chánh thống thì tập đại thành Tỳ-bà-sa lại trình bày một định hướng bách khoa, đó là luôn hài lòng với tính cách bao quát toàn diện bằng phương pháp xếp loại mục lục phạm vi toàn diện của các chủ trương giáo lý bất đồng, Tập đại thành Tỳ-bà-sa trở thành là tàng xứ nghĩa luận [repository] của vài thế kỷ cho các nhánh đa dạng đại diện hoạt động học thuật của Nhất thiết hữu bộ, các nhánh này đã truyền bá luận bản ấy khắp vùng Đông bắc Ấn độ. Tuy nhiên, nhất là được kết hợp với những đồ chúng Nhất thiết hữu bộ Kashmir [Kế tân] bằng truyền thống, mà nhờ vậy, họ đạt được tôn hiệu Nhất thiết hữu Tỳ-bà-sa sư (Skt: Sarvāstivāda Vaibhāṣika).
Còn ba bản văn nữa đã soạn ra trong cùng thời kỳ này, và chúng đã được liên kết với giáo phái Đặc-địa-điều (Skt: Gandhāra) ở vùng Tây-bắc Ấn độ trình bày một cấu trúc sai biệt đáng quan tâm và kết quả là: Tác phẩm A-tỳ-đàm tâm luận (Skt: Abhidharmahṛdaya śāstra, T-1550) của Dharmaśreṣṭhin, tác phẩm A-tỳ-đàm tâm luận (Skt: Abhidharmahṛdaya śāstra,, T-1551) của Upasānta; và Tạp a-tỳ-đàm tâm luận (Skt: Miśrābhidharmahṛdaya śāstra, T-1552) của Dharmatrāta. [Tất cả] được trứ tác bằng thi kệ theo một thể loại tự thích tán ngôn thuộc thể văn xuôi đi kèm. Những bản văn này có chức năng như là những trích tuyển toát yếu về mọi khía cạnh giáo lý trình bày y theo cơ cấu hợp lý luận và phi trùng phục [non-repetitive - không lặp lại]. Ngược với các bản kê biên danh mục có hướng dẫn bằng pháp số ở sơ kỳ khéo thích hợp cho thuật trợ ký ức, thì ở đây, cả ba luận bản đã chọn ra một phương thức tổ chức mới lạ, nổ lực dung nhiếp các bản danh mục phân loại được xem là trọng yếu và dung nhiếp mọi giãng luận về các điểm giáo nghĩa đặc thù dưới những bộ phận có chủ đề chung.
Cơ cấu tổ chức mới này đã trở thành điển hình cho các bản văn thuộc về thời kỳ cuối của A-tỳ-đàm Nhất thiết hữu bộ.Thời kỳ cuối trong sự phát triển của luận tạng A-tỳ-đàm Nhất thiết hữu này bao hàm các bản văn mà chúng là những thành quả của chư tác gia đơn độc và họ đã chọn một kiểu tranh luận chú giải bằng bút chiến, trình bày một trạng thái tự nhận thức giáo phái được phát triển hoàn bị. Họ cũng không ngừng ứng dụng thuật biện giải tinh xảo để chứng minh cho chủ trương trường phái của chính mình và, sau cùng là bác bỏ các quan điểm của các học phái khác. Cho dù tiếp cận hay đối đầu bằng bút chiến, thế nhưng mục đích của họ hình như là làm khởi sinh tác dụng của các bộ pháp tụ được khéo tổ chức hay là các trích tuyển giáo pháp đối với thực thể hoàn chỉnh của Phật giáo.
A-tỳ-đạt-ma-câu-xá (Abhidharma-kośa, Kho tàng vi diệu pháp, T-1558), gồm có cả hai thể loại thi kệ, một là bổn tụng (kārikā) và hai là Thích luận (bhāṣya), tức là vừa có thích luận vừa có bổn tụng, do Thế Thân (Vasubandhu) mà luận phẩm ấy [tức là luận bản của Thế Thân] đã thành bản văn quan trọng nhất từ thời kỳ này, đã trở thành trung tâm cho các truyền thống về sau của các nhà nghiên cứu Abhidharma ở Tây tạng và khu vực Đông Á. Sau khi chọn vừa là thể loại cấu trúc Thích luận bằng thi kệ vừa là sự tổ chức thể tài A-tỳ-đàm tâm luận, A-tỳ-đạt-câu-xá đã trình bày một mô tả chi tiết hóa về giáo thuyết A-tỳ-đàm Nhất thiết hữu bộ bằng sự phê phán phong phú đối với chủ trương của bộ phái này trong Thích luận của mình. A-tỳ-đạt-ma-câu-xá đã thách thức câu trả lời từ một vài bậc luận sư thuộc về Nhất thiết hữu Kế-tân [Kashmir], những vị đã thử cố gắng phản bác những quan điểm phi Nhất thiết hữu đã nêu trong tác phẩm của Thế thân và tái thiết lập sự giải thích về những chủ trương Nhất thiết hữu Kế-tân chánh thống của mình. Những tác phẩm như, A-tỳ-đàm Ưng lý tùy thuận luận (?) (Skt: Nyāyānusāraśāstra - Ưng lý tùy thuận luận. 應理隨順論, T-1562 - [?] Engl: Conformance to Correct Principle, Y chiếu vào nguyên lý chính xác) và A-tỳ-đàm ước luận (minh đăng) thích (Skt: Abhidharmasamayapradīpikā. Eng: Illumination of Abhidharma, Sự tỏa sáng của A-tỳ-đàm, T-1563) được Saṅghabhadra trước tác và, Abhidharmadīpa (Illumination of Abhidharma, sự tỏa sáng của A-tỳ-đạt-ma) do một tác giả vô danh, người tự cho mình như là Dīpakāra (tác giả của Dīpa), đây là những tác phẩm cuối cùng của truyền thống A-tỳ-đàm Nhất thiết hữu đã còn sót lại.
Tạng luận A-tỳ-đàm
Sự phân tích trừu tượng là nguyên lý dẫn đạo cho chư luận Abhidharma, nó cũng trở thành đặc tính nổi bật về sự kiến giải giáo nghĩa của mình. Khuynh hướng dùng phân tích này, thậm chí, tính hiển nhiên ở các bảng danh mục vẫn hiện còn trong chư Kinh, được mở rộng ra trong Abhidharma nhằm hoàn thiện mọi thẩm nghiệm. Bằng những thuật ngữ rất giản đơn, Abhidharma nỗ lực mô tả toàn triệt và có hệ thống về mỗi loại thẩm nghiệm hợp lý của những thành phần cấu tạo tối hậu của nó. Abhidharma đã khảo sát sự thẩm nghiệm bằng quan điểm có phân tích phê phán, phá vỡ những khách thể phàm tưởng thô phù trong các yếu tố cấu tạo hay pháp [dharma] của chúng và làm hiển minh sự tương tác nhân quả giữa những tâm tố có đặc tính riêng lẽ này. Tuy nhiên, những phân tích ấy, không chỉ được thúc đẩy bằng sự quan tâm siêu việt thuần túy, hơn thế nữa, chúng còn được thúc đẩy bằng bản hoài tận độ chúng sinh ở chính trong cốt tủy tu hành của Phật giáo vậy. Sự phân tích này đã xác định được những tâm tố tất yếu của nó mà mỗi một dữ kiện đã nội hàm, nó có thể phân biệt giữa những tâm tố nào dẫn đến khổ đau sinh tử, và những tâm tố nào đã tham gia vào sự cáo chung của chúng. Chính tiến trình phân tích như thế được nhận ra bằng MINH SÁT, mà nhiệm vụ trong thực hành tôn giáo là chặt dứt các tâm tố nào có bản chất luân hồi và trao giồi những tâm tố thuần tịnh nào để đưa đến giải thoát.
Sự phân tích Abhidharma tập trung vào cách lọc sạch những tâm tố qua bản danh mục ấy và tập trung vào việc nghiên cứu những vấn đề đã nẩy sinh trong khi sử dụng chúng để lý giải sự thẩm nghiệm. Các bảng danh mục đơn giản về những tâm tố đã tìm gặp trong các Kinh sơ kỳ bao hàm các bản danh mục về ngũ uẩn (skhanda), mười hai xứ (āyatana), và mười tám giới hay mười tám tâm tố (dhātu), những danh mục này đã được quen dùng nhằm mô tả chúng sinh hoặc là các bảng danh mục tu tập và các phẩm loại mà chúng thường hay được thừa nhận là cái đã được xếp thành khối trong ba mươi bảy phẩm trợ đạo, tu tập những phẩm tính này khiến ta đạt đến quả vị giác ngộ. Bảng danh mục phân tích sơ kỳ ấy, còn bảo lưu trong các luận thư Abhidharma và hòa nhập trong các phạm trù phân loại bao hàm toàn diện và có tính giao thoa phức hợp nhằm để định rõ cả tướng đồng nhất của mỗi một tâm tố, lẫn mọi pháp thức hợp lý về sự tương tác năng duyên giữa chúng.
Những luận thư Abhidharma của nhiều bộ phái khác nhau đã trình ra các bảng danh mục khác biệt về các tâm tố có nhiều đến 75, 81, hay 100 phạm trù có đặc tính cá biệt nhất định. Chẳng hạn, Nhất thiết hữu bộ đã chọn một hệ thống 75 phạm trù căn bản [75 phạm trù có các tâm tố hay tác duyên căn bản] phân biệt theo bản chất cố hữu [Skt: svabhāva, tự tánh] của chúng, do vậy, chúng được xếp thành 5 lớp riêng biệt, 4 lớp ban đầu (Sắc [rūpa]—11; Tâm hay thức [citta]—1; những tâm tố thuộc về tâm hay tâm sở ([Skt: caitta. ]—46; và những tâm tố ở bên ngoài sắc và tâm [2] —14, (Skt: Cittaviprayuktasaṃskāra, tâm bất tương ưng hành), bốn lớp này bao gồm mọi tâm tố đã bị điều kiện hóa (Skt: saṃskṛta. pháp hữu vi), nghĩa là, những tâm tố tham gia vào sự tương tác nhân quả, chủ thể của sinh tử. Lớp thứ 5, bao gồm những tâm tố phi điều kiện hóa (Skt: Asaṃskṛta. Vô vi), nghĩa là, những tâm tố bất sinh, bất diệt [pháp vô lậu].
Qua phân tách Abhidharma, mọi dữ kiện thẩm nghiệm đều được lý giải như là sự khởi sinh do quan hệ tác dụng của một nhóm nào đó giữa những tâm tố này. Nhất là các dữ kiện của những tâm tố cá biệt đều đã được miêu tả hơn lên theo tiêu chuẩn đặc trưng cộng trợ, hoặc là các đặc tướng có bản chất luân lý của chúng như là thiện, phi thiện, bất định tướng, các sắc xứ của chúng [môi trường phát sinh] được xem là cảm nhiễm [tương ưng] với ba địa hạt [ba cõi, tam giới]: Dục giới, sắc giới và vô sắc giới; hoặc là phi tương ưng với bất cứ địa hạt nào, sự tương ưng của chúng với trạng thái cảm nghiệm khiến cho có sinh mệnh này có phải là hành tướng của những chúng sinh hay là không, là do sự tương quan năng duyên của chúng có tác dụng như là quả từ một vài nhóm của nhân hoặc dẫn đến một vài nhóm của quả. Hãy lấy một thí dụ, một sát na đặc biệt của một tâm tố, ý nghĩ hay niệm tưởng (saṃjña) chẳng hạn, có thể là thiện ở mặt luân lý, hành tướng của chúng sinh, tương ưng với dục giới và v.v...
Trong trường hợp khác, một dữ kiện có cùng một tâm tố niệm tưởng tương tợ, trong khi vẫn là hành tướng của chúng sinh, nhưng có thể là bất thiện, sát na ấy, tương ưng với sắc giới. Cho dù là đặc tánh của sát na không thuộc về thiện, không thuộc về ác [tức là sát na vô cảm, vô ký], thế nhưng mọi sát na bất kể đặc tính của chúng là gì, đều được chia phần trong bản chất tương tợ như niệm tưởng và, do đó, được đặt trong một phạm trù căn bản giống như vậy. Theo cách ấy, giản đồ phân loại có 75 tâm tố trình bày 75 phạm trù về đặc tánh cố hữu [tự tánh], mỗi một tâm tố của 75 phạm trù này lóe lên [nẩy sinh] một cách phi thường và lóe lên một cách trực nghiệm [experientially] trong vô số sát na. Qua thực hành các phân tích triệt để theo quy luật này về những cấu tạo tâm, người ta có thể cho rằng kinh nghiệm là có thật, những nguyên tố làm nhân cho khổ đau xa hơn nữa, có thể được loại trừ, thế thì sự góp phần [thẩm nghiệm] này hướng về giải thoát đã có thể được độc lập và có thể được trau giồi vậy.
Bảng phân tích kinh nghiệm Abhidharma triệt để ấy gây nên một tập hợp lớn những tranh luận về giáo nghĩa, đã vạch đường ranh giữa các bộ phái khác nhau. Nhiều cuộc tranh luận này đều được nhắm đến bởi những bất đồng cơ bản gọi là bản thể, nhất là tương quan đến cái cách mà trong đó các nguyên tố đặc sắc cấu thành thể nghiệm là thực hữu, và nhất là những động lực tương tác của chúng hay những tương quan năng duyên cũng đều thật hữu. Những mối quan tâm về bản thể như vậy đã kích hoạt bảng danh mục của các tâm tố sơ kỳ trong chư Kinh, và chúng được người ta đã quen dùng để chi trì giáo pháp vô ngã (ātman) nền tảng của Phật giáo, bằng cách minh chứng rằng, cái gọi là vô thường, bất biến, ngã tự hữu có thể được chứng minh.
Tiêu điểm quan tâm về bản thể trong các luận thư Abhidharma được chuyển di từ các khách thể thô phù, cái ngã như vậy, sang những tâm tố hay các pháp (dharma) mà những khách thể này đã đuợc nhận thức là tồn tại. Có lẽ bản thể đặc sắc nhất đã được chư gia Nhất thiết hữu bộ đề xuất, “những người tuyên bố [tất cả có] sarvam asti, nhất thiết hữu” hay nhất thiết hiện hữu vậy [everything exist]. Sau khi bắt đầu từ giáo lý VÔ THƯỜNG (ANITYA) nền tảng của Phật giáo, họ đề nghị rằng, những tâm tố cấu thành cảm nghiệm là có thật giống như là những thực thể riêng và thực hữu, chúng sanh diệt trong khoản thời gian cực nhanh đơn độc. Thế nhưng một quan điểm về cảm nghiệm như thế với tư cách là một sự sắp hàng của những sát na tâm chỉnh thể, có thể nên xem như là chính chúng tạo thành sự tương tục và, thật vậy, bất cứ sự tuơng tác duyên hệ nào giữa những tâm tố có cá tính cá biệt này đều không thể nghĩ bàn. Các tâm tố của một sát-na, sự hiện hữu của chúng được giới hạn ở khoảng khắc đó, có lẽ chúng không bao giờ là điều kiện hay duyên quyết định cho sự sinh khởi của các tâm tố sau vì chúng chưa hiện hữu, và kế đến, các tâm tố của sát-na sau phải sinh khởi vô nhân, bởi vì các nhân trước hiện hữu quá ngắn. Nhằm hộ trì cho cả giáo thuyết Phật giáo về vô thường lẫn quá trình năng duyên, mà quá trình này thật cần thiết để khởi sinh tác dụng cho thường nghiệm, chư gia Nhất thiết hữu bộ lại đề nghị một phương thức lý giải mới nữa về hữu thể. Họ tuyên bố, mỗi một tâm tố vừa bị một bản chất [nội tại cố hữu] đặc trưng hóa mà bản chất này hằng hữu trong ba thời [tam thế thật hữu] và vừa có luôn cả sự hoạt động hoặc tác dụng thuộc về nhân nữa, mà tác dụng này sinh và diệt là do ảnh hưởng ở trong cái khoảng của sát-na hiện tại đó. Duy nhất những tâm tố này đã bị cả bản chất nội tại và lẫn cái công năng vận hành như vậy quyết định mà hai tự tính ấy hiện hữu như là những thực thể (dravya, thực chất); còn những khách thể hỗn hợp của thường nghiệm hay sự thể nghiệm phổ quát lại thiếu vắng bản chất nội tại chỉ hiện hữu như là những cấu trúc tâm hay những chức năng lâm thời [Skt: prajñapti: Thi thiết 施設, kiến lập giả danh 建立假.] mà thôi. Chư gia Nhất thiết hữu bộ tuyên bố, cái mô thức này duy trì giáo lý vô thường của Phật giáo, vì mỗi sự vận hành của tâm tố ấy luôn sinh và diệt, và cũng chỉ như vậy mới lý giải được tính tương tục và quá trình duyên dĩ sinh, bởi vì các tâm tố hiện hữu như là bản chất cố hữu trong cả ba thời. Thế thì, những tâm tố có ở quá khứ (hay tương lai) như vậy, có thể gây ảnh hưởng đến sự khởi sinh của các tâm tố sau qua các nhóm tác dụng thuộc về nhân sai biệt [tác dụng theo nhân dĩ sinh].
Mô thức về bản thể của Nhất thiết hữu bộ này đã tạo nên sự chống đối kịch liệt và đã bị một vài bộ phái bác bỏ (chẳng hạn Bộ phái nguyên thủy [Theravāda] và chư gia bộ phái Thí dụ [dārṣṭānika, Thí dụ bộ sư 譬喻部師]) bài bác, họ tuyên bố rằng, các tâm tố chỉ có bản chất cố hữu trong hiện tại và không thể hiện hữu trong quá khứ và tương lai. Theo chư gia Thí dụ bộ sư, tự tánh hay bản chất cố hữu không thể bị phân biệt do sự vận hành của một tâm tố nào cả. Thực ra, một tâm tố hiện hữu chính là sự vận hành của nó, và cảm nghiệm không gì khác hơn ngoài tiến trình tương quan duyên hệ bất tuyệt mà thôi. Sự vỡ vụn [biến hoại] của tiến trình tương quan duyên hệ này trong các tâm tố có cá tính nhất định thuộc về bản chất cố hữu đơn lẽ và hiệu năng duy nhất thì không là gì cả, mà chỉ là một giả lập danh hay là sự thi thiết của tâm mà thôi.
Những công trình lý giải bản thể như vậy, đã phát sinh các giáo thuyết phức hợp về cái năng duyên [điều kiện tác dụng-conditioning] và các hình thể học về nhân và duyên rất khó hiểu. Có bằng chứng cho vài phân loại đối nghịch về các nhân và duyên cá biệt, mỗi sự phân loại này tạo nên một phương cách đặc trưng về sự tương tác năng duyên giữa những phạm trù đặc trưng của các tâm tố: Chẳng hạn, chư gia Nguyên thủy Phật giáo nêu lên một bộ phận 24 duyên; chư gia Nhất thiết hữu bộ, [đề nghị] 2 bộ phận của 4 duyên và 6 nhân tách rời nhau. Ngoài ra, các hệ thống hình thể học về nhân và duyên khác biệt còn đang chứng minh. Các trường phái này vẫn không đồng ý về thể thức gây nhân bị những nhóm đặc trưng này sai sử. Chư gia Nhất thiết hữu bộ đã thừa nhận rằng, chắc chắn các nhân và duyên này phát sinh trước các quả của chúng, một ít các bộ phái khác cố gắng nêu ra một cái duyên dĩ sinh [amitate conditioning-điều kiện tác dụng khiến tạo ra sinh mệnh] đóng vai trò bổ trợ, khởi sinh đồng thời với quả của chúng [học thuyết nhân quả đồng thời].Tuy nhiên, chư gia Thí dụ bộ chỉ cho phép là cái tạo ra quả có tính tương tục mà thôi; một nhân phải luôn luôn đi trước quả của nó. Qua những cuộc tranh luận về học thuyết nhân quả này, bản chất về cái năng duyên khiến cho có sinh mệnh hay là cái duyên dĩ sinh, và học thuyết duyên sinh này có ý định lý giải cái năng duyên khiến cho có sinh mệnh ấy, mà một cách tự nhiên đã thành là những thể tài cốt lõi, bởi lẽ, vai trò tối yếu của chúng nằm trong tất cả Lý và sự của Phật giáo, tức là, hành vi có năng lực đem đến hệ quả hoặc là NGHIỆP (KARMA) vậy.
Sự tra cứu thuộc về các cuộc tranh biện giáo nghĩa này đã chiếm lĩnh được một vị thế quá vĩ đại chưa từng có trong chư tạng luận Abhidharma hậu kỳ, vị thế ấy đã đòi hỏi sự phát triển những phương pháp tranh luận quy mô hơn nữa nhằm ứng dụng triệt để cả hai mặt, vừa trích dẫn Thánh điển mang tính chứng thực và vừa ứng dụng những tra cứu xứng lý. Qua những những điển hình sơ kỳ về các cuộc luận chứng như vậy, các tra cứu hợp lý ấy chưa có được năng lực kiểm chứng độc lập và chỉ được xem như là có giá trị trong việc kết hợp với những trích dẫn y Kinh mang tính chứng thực mà thôi. Thế nhưng việc y chỉ này đã kích phát nhanh sự phát triển KHOA CHÚ GIẢI VĂN BẢN CỔ có hệ thống [systematic hermeneutics - khoa thông diễn học có hệ thống], mà nó hẳn hòa giải được những lập trường xung đột bằng cách đánh giá tính hữu hiệu và thẩm quyền về những tiểu đoạn y cứ trên Kinh vốn làm tăng thêm lý chứng [passage] và vốn xác định phương pháp chính xác về khoa THÔNG DIỄN HỌC của mình nữa.
Nói chung, các nguyên lý luận giải đã áp dụng, đều bao quát toàn bộ hạn mục và rất hài hòa; bất cứ sự tuyên bố nào cũng đều được cho thấy là y giáo phụng hành, hoặc là y theo kinh nghiệm giác ngộ của đức Phật [mà trạnh thái ấy] đã được thừa nhận là sự thật. Các hệ thống trật tự được tạo ra đã kết hợp lại các đoạn kinh bị mất tính mạch lạc thành nhất quán, bằng cách đánh giá chính xác chúng một cách đặc thù. Và cuối cùng, các hệ thống trật tự được tạo ra đã hợp lại những tiểu đoạn có từ cú sai biệt trong Kinh văn và cả trong các bản văn Abhidharma được cho là biểu trưng những bối cảnh bất đồng từ cái mà có thể đã được Phật giáo thể hiện rồi, thành nhất quán. Đáng kể nhất là sự so sánh song đối của nó giữa bản thể học và nhận thức luận Phật giáo hậu kỳ thành kỷ thuật khảo đính văn bản cổ [thông diễn học], nhờ thế mà những tiểu đoạn hay một vài bản văn đã được đánh giá để mang nghĩa hiễn ngôn biểu đạt chân lý tuyệt đối (nītārtha - liễu nghĩa) hay thực tại, trong khi các bộ phái khác vẫn còn đang trong tư biện mịt mờ (neyārtha - bất liễu nghĩa), chỉ thuần biểu đạt chân lý quy ước (tục đế) mà thôi. Và đối với các bản văn Abhidharma, chư Kinh chỉ đơn thuần là hàm ngôn và trong trường hợp có yêu cầu lý giải xa hơn, vậy thì chỉ có thể được củng cố bằng tạng thư Abhidharma hiễn ngôn mà thôi. Trong các bản văn abhidharma hậu kỳ, các cuộc tra cứu xứng lý đã xem như là hoàn mãn, và các sở chỉ y trên Kinh mang tính chứng thực này, đã thành là cơ sở chung hay chân lý hiễn nhiên tách rời nguyên văn [decontextualized common places], được trích dẫn chỉ là nhằm xác chứng giá trị sử dụng những thuật ngữ then chốt trong ngữ cảnh Abhidharma mà thôi. Những tra cứu hợp lý đã bắt đầu được khẳng định bằng tiêu chuẩn phi pháp điển theo tính độc lập, chẳng hạn như tính nhất quán nội tại [internal consistency], và tính lý luận chính xác, chẳng hạn như sự biện hộ lý do sai lầm. Phân tích giáo nghĩa và những phương pháp tranh luận đã phát triển trong các tạng luận Abhidharma đã xác định quá trình diễn biến đối với chủ trương học thuật của Phật giáo Ấn-độ hậu kỳ, đã tinh luyện và hoằng dương di sản Abhidharma nhờ cộng đắc cùng những cảnh quan giáo nghĩa mới, nhờ cộng đắc cùng những kỹ thuật luận chứng tinh xảo tuần tự tăng dần lên và một ngữ cảnh rộng rãi cho cả nội bộ và ngoại bộ Phật giáo nữa.
*
Ghi chú:
[1]
1. Tập dị môn túc luận (zh. 集異門足論, sa. saṅgītiparyāya): bao gồm những bài giảng theo hệ thống số, tương tự như Tăng chi bộ kinh;
2. Pháp uẩn túc luận (zh. 法蘊足論, sa. dharmaskandha): gần giống như Phân biệt luận trong A-tì-đạt-ma của Thượng toạ bộ;
3. Thi thiết túc luận (zh. 施設足論, sa. prajñaptiśāstra): trình bày dưới dạng Kệ những bằng chứng cho những sự việc siêu nhiên, thần bí;
4. Thức thân túc luận (zh. 識身足論, sa. vijñānakāya): nói về các vấn đề nhận thức. Có vài chương nói về những điểm tranh luận giống Luận sự (pi. kathāvatthu), Giới luận (pi. dhātukathā) và Phát thú luận (zh. paṭṭhāna) trong A-tì-đạt-ma của Thượng toạ bộ;
5. Giới thân túc luận (zh. 界身足論, sa. dhātukāya): gần giống Giới thuyết luận (pi. dhātukathā) của Thượng toạ bộ;
6. Phẩm loại túc luận (zh. 品類足論, sa. prakaraṇa): bao gồm cách xác định những thành phần được giảng dạy và sự phân loại của chúng;
7. Phát trí luận (zh. 發智論, sa. jñānaprasthāna): xử lí những khía cạnh tâm lí của Phật pháp như Tùy miên (zh. 隨眠, sa. anuśaya), Trí (智, sa. jñāna), Thiền (禪, sa. dhyāna) v.v… (xem thêm Tâm sở) (theo CHÂN NGUYÊN / bản điện tử). - N.D.
[2] cittaviprayuktasaṃkāra : Hành không tương ưng với tâm. Tức là các căn, tuy nằm trong tâm sở, nhưng có khuynh hướng tăng thượng, không bị sắc pháp ô nhiễm. Như: tín, tinh tấn, niệm, định, tuệ (Lớp Câu-xá / Phạn-Hán-Anh-Pháp đối chiếu do thầy TUỆ SỸ dạy).
*
--
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét