VISUDDHI-MAGGA (Luận sư Buddhaghosa) THANH TỊNH ÐẠO LUẬN TOẢN YẾUTHÍCH PHƯỚC SƠN biên soạn 2540 - 1996 MỤC LỤC | |
| |
Phần thứ nhất: GIỚI
| |
Phần thứ hai: ÐỊNH
| |
| |
| |
| |
Phần thứ ba: TUỆ
| |
| |
Tổng luận. Kinh sách tham khảo. |
-ooOoo-
Thanh Tịnh Ðạo luận là tác phẩm do luận sư Buddhaghosa trước tác. Sư là người Ấn Ðộ, sanh vào giữa thế kỷ thứ 5 tây lịch, vốn là một nhà Phật học uyên thâm, vừa là một học giả lỗi lạc. Ngài đã chọn lọc những tinh hoa của giáo điển Nam truyền soạn thành bộ luận này, gồm 58 chương. Về sau, tác phẩm này được đại đức Nànamoli, người Anh tu tại Tích Lan, dịch sang Anh văn, gom lại còn 23 chương và xuất bản tại Colombo Ceylon, năm 1956. Ni sư Thích Nữ Trí Hải, một dịch giả tài hoa, đã đem bản Anh văn này dịch ra Việt văn và cho xuất bản tại Hoa Kỳ, năm 1991. Chúng tôi dùng bản dịch này làm cơ sở rút ngắn lại - nhưng vẫn giữ được trọn vẹn những nội dung trọng yếu - thành tập giáo trình để hướng dẫn tăng ni sinh lớp Cao cấp Phật học. Trong khi biên soạn, chỗ nào thấy cần xem lại, chúng tôi dò lại nguyên bản; chỗ nào chưa rõ, chúng tôi tham khảo kinh luận Nikàya mà bản luận đã trích dẫn để tìm hiểu vấn đề một cách thấu đáo. Ðồng thời chúng tôi so sánh những điểm dị biệt giữa bản luận với luận điển Bắc truyền, nhằm giúp độc giả thấy được tính chất phong phú và tinh vi trong giáo lý của đức Phật.
Tập sách này không những là tài liệu học tập thiết yếu đối với Tăng Ni trường Cao cấp, mà còn là kim chỉ nam cho những ai có hoài bảo thám hiểm đại dương chánh pháp và khát khao thưởng thức hương vị tinh truyền của giáo lý nguyên thủy do đức Thế Tôn truyền lại.
Cuối cùng, tôi chân thành cảm ơn tập thể Ni sinh năm thứ 4, khóa III của trường đã tận tụy lo việc in ấn để cho soạn phẩm hoàn thành viên mãn và đến tay Tăng Ni sinh đúng thời hạn.
Thiền viện Vạn Hạnh, ngày 17-09-1996
THÍCH PHƯỚC SƠN
THÍCH PHƯỚC SƠN
-ooOoo-
TIỂU SỬ
PHẬT ÂM (BUDDHAGHOSA)
Còn gọi là Phật Minh, Giác Âm, Phật Ðà Cù Sa, Người ở Phật đà già da, nước Ma Kiệt Ðà (Magadha), thuộc Trung Ấn Ðộ, vào thế kỷ thứ V. Sư xuất thân trong gia đình Bà la môn, ban đầu học Phệ đà, tinh thông Du già, Số luận v.v..., về sau, Sư quy y Phật giáo, tinh thông các kinh điển. Vì mục đích hoằng truyền Phật pháp, rống tiếng rống của sư tử mà Sư soạn các chú thích bộ luận Phát trí (Nanodaya), luận Thù Thắng Nghĩa (Atthasàlini) và Luận Pháp Tập.
Vào năm 432 Tây lịch kỷ nguyên, Sư vượt biển sang Tích Lan, trú tại Ðại tự (Mahàvihàra), theo Trưởng lão Tăng-già-ba-la (Sanghapàla Thera) nghiên cứu thánh điển tàng trữ tại chùa ấy, rồi đem dịch sang tiếng Pàli, và soạn Thanh Tịnh Ðạo luận (Visuddhimagga), Thiện Kiến Luật chú tự (Samantapàsàdikà) chú giải luật tạng (Sách nầy còn có tên là Thiện Kiến Luật Tì bà sa; Thiện Kiến luận.) v.v.... Ðồng thời, Sư đem giáo nghĩa của Thượng Toạ bộ ra soạn thuật thành một hệ thống hoàn chỉnh. Trong đó, có thể nói Thanh Tịnh Ðạo luận là một tác phẩm toát yếu toàn bộ Tam tạng kinh điển và Luận sớ. Về sau, Sư đem 4 bộ kinh Nikàya dịch sang tiếng Ba lợi (Pàli), và soạn chú sớ tại chùa Kiền Ðà la (Granthakara parivena), xứ A nỗ lạp đạt phổ lạp (Anuràdhapura). Giải thích Trường Bộ kinh thì có Cát Tường Duyệt ý luận (Sumangalavilàsinì); giải thích Trung Bộ kinh thì có Phá trừ nghi chướng luận (Papaĩcasùdanì); giải thích Tương Ưng Bộ kinh thì có Hiển Dương Tâm Nghĩa Luận (Sàratthappakàsinì); giải thích Tăng Chi Bộ kinh thì có Mãn túc hi cầu luận (Manorathapùraịì). Ðến khi ấy Tam Tạng Ba Lợi mới cực kỳ hoàn bị.
Những chú thích của Sư, không chỉ hạn cuộc chữ nào nghĩa nấy của bản văn, mà bao quát cả các loại giải thích về lịch sử, địa lý, thiên văn, âm nhạc, động vật, thực vật v.v..., đặc biệt, đối với phong tục tập quán của Ấn độ cổ đại, Sư còn làm thêm ký thuật liên quan đến những văn hiến trọng yếu dùng để nghiên cứu về Ấn độ. Người Tích Lan ca ngợi học vấn uyên bác của Sư và sùng kính Sư như là Bồ tát Di Lặc tái thế. Lúc cuối đời, Sư trở về cố quốc an dưỡng tuổi già. Nhưng trong lịch sử Phật giáo Miến Ðiện bảo Sư là người Miến Ðiện, khoảng năm 400 từ nước Kim Ðịa (Kim địa: ngày nay nằm về hạ lưu Miến Ðiện cho đến bán đảo Mã Lai Á.) vào Tích Lan du học, rồi 3 năm sau, đem kinh điển trở về phục hung Phật giáo Miến Ðiện. (Căn bản Phật Ðiển nghiên cứu; The Life and Work of Buddhaghosa, PQÐTÐ, tr 2643 a-c).
NANAMOLI THERA (Na-na-ma-lợi Trưởng lão) (1905-1960)
Tôn giả Nanamoli sinh ngày 25-6-1905 tại Anh quốc, thế danh là Osbert Moore (Áo-tư-bá- đặc-ma-nhĩ). Thiếu thời, Tôn giả tùng học và tốt nghiệp tại Ngưu Tân Ái Tắc Ðặc Học Viện. Trong lúc thế chiến thứ 2 xảy ra, Tôn giả phục vụ trong hàng ngũ lục quân Anh, và đóng quân tại Ý Ðại Lợi. Do nhân duyên dun rủi, Tôn giả cùng người bạn là Harold Musson (Cáp-la-đức Mặc-Tốn), đọc được một cuốn sách viết về Phật giáo của người Ý là J. Evola (Nghệ-a-na); vì thế, 2 người phát tâm quy hướng Phật giáo.
Sau khi đệ nhị thế chiến kết thúc, Sư trở về nước, đến năm 1949 Sư cùng Mặc Tốn quyết tâm sang Tích Lan nghiên cứu Phật học, và may mắn được một Trưởng lão người Ðức là Nại-na-đề- lộ-biện hướng dẫn gia nhập Tăng đoàn, dưới quyền điều khiển của Ðại đức Ðại-na-nhã-biện-tì-trí-la-na-na. Sang năm sau (1950), hai người thọ giới cụ túc với Ðại na nhã biện nên tôn vị này làm thầy, và được pháp hiệu là Nànamoli.
Ðến năm 49 tuổi (1954) Na-na-ma-lợi chuyên tâm nghiên cứu ngôn ngữ Pàli, Tân cáp lợi và Miến Ðiện. Không bao lâu sau đó, Sư rất tinh thông các ngôn ngữ nầy, nhờ vậy có điều kiện nghiên cứu sâu về Phật pháp, và trở thành một học giả uyên thâm. Từ đó, Sư cộng tác với Hiệp hội Thánh điển Pàli để phiên dịch các kinh luận Pàli sau đây sang Anh văn: 1. Thanh Tịnh Ðạo luận (Visuddhimagga); 2. Vô Ngại Giải Ðạo (Patisambhidà-magga) 3. Chỉ Ðạo luận (Nettipakarana); 4. Tạng luận Thích (Petakopadesa). Ngoài ra, Sư còn viết về Lịch sử đức Phật và dịch kinh Trung bộ. Chừng ấy công trình phiên dịch cũng đủ chứng minh trình độ Phật học uyên thâm của Sư.
Sư sống rất giản dị, tuân thủ giới luật một cách tinh nghiêm (trong suốt 11 năm trường, Sư chỉ mặc ròng y vàng, tượng trưng cho sự thanh khiết, và cũng hiếm khi xỏ chân vào dép). Tính tình hòa nhã, trầm lặng, ít nói, và mỗi lời nói của Sư đều là lời vàng ngọc, đầy tính chất trí tuệ và truyền cảm. Sư xem việc sinh tử nhẹ như lông hồng. Thế nên, trong lúc chiến tranh, đã bao lần đối diện với cái chết, nhưng Sư đều thoát khỏi.
Sư viên tịch năm 1960. Từ lúc xuất gia cho đến lúc xả báo thân, ròng rã 11 năm trời, Sư cống hiến trọn vẹn cho sự nghiệp phiên dịch kinh điển, và truyền bá chánh pháp. Sư mất sớm, thật là một tổn thất lớn đối với Phật giáo. (Tây Dương Phật giáo học giả truyện, William Peiris soạn bằng Anh văn, Mai Nãi Văn dịch ra Hán văn, xb. 1986, tr. 73)
LIỄU THAM hay DIỆP QUÂN (1916-1985)
Sư sinh năm 1916, tại tỉnh Chiết Giang, Trung quốc, xuất gia lúc còn trẻ, được pháp hiệu là Liễu Tham. Sau đó, Sư tham học với Ðại sư Thái Hư tại viện Giáo lý Hán tạng. Năm 1944, gặp cơ duyên thuận tiện, Ðại sư cho phép Sư cùng Quang Tông và Bạch Tuệ sang Tích Lan du học. Từ năm 1953-1956 Sư dốc tâm học Anh văn và Pàli văn, đồng thời theo nhà học giả Pàli Bát Nhã Nan đà (Pannananda) chuyên nghiên cứu Thanh Tịnh Ðạo luận. Thế rồi, Sư đem phần luận văn học được mỗi ngày dịch sang Hán văn. Sang năm 1957, Sư trở về nước mang theo bản Thanh Tịnh Ðạo luận đã dịch, rồi cho ấn hành chừng 100 bản để đáp ứng nhu cầu học Phật của người trong nước. Sau đó, vì hoàn cảnh khó khăn, Sư phải hoàn tục. Ðến năm 1978, Sư mới có thì giờ đem bản dịch còn nhiều lầm lẫn trước kia ra hiệu đính, tới năm 1980 thì hoàn chỉnh. Nhân bài phát biểu của Sư đăng trên tạp chí "Lan Khải chi Quang Báo", các học giả trong nước thấy rõ giá trị của dịch phẩm, nên yêu cầu Sư cho xuất bản. Do vậy, nhà xuất bản Hoa vũ bèn đem ấn hành thành 3 tập vào năm 1987.
Sư nổi tiếng thông minh từ bé, được duyên lành sang Tích Lan du học trong 14 năm (1944- 1957). Sau khi về nước, do nghịch cảnh Sư phải trở về thế tục, nhưng vẫn lấy việc nghiên cứu Phật học và phiên dịch kinh điển làm sự nghiệp. Ngoài bản dịch trên, Sư còn dịch kinh Pháp cú và Nhiếp A Tì Ðạt Ma Nghĩa Luận thuộc hệ thống Nam tạng. Sư viên tịch vào năm 1985 tại quê nhà. (PQÐTÐ, tr. 165. a; Thanh Tịnh Ðạo luận, quyển thượng, Ðài Loan xb. 1987)
-ooOoo-
LIST OF ABBREVIATIONS USED (BẢNG TRA CHỮ TẮT)
A. : Anguttara Nikàya
AA. : Anguttara Nikàya Atthakathà (Commentary) = Manorathapùranì
Cp. : Cariyàpitaka
Dh. : Dhammapada
DhA. : Dhammapada Atthakathà (Commentary)
Dhs. : Dhammasanganì
DhsA. : Dhammsanganì Atthakathà (Commentary) = Atthasàlinì
DhsAA. : Dhammasanganì Tìkà (Sub-commentary) = Mùla Tìkà (pt. I)
Dhk. : Dhàtukathà
D. : Dìgha Nikàya
DA. : Dìgha Nikàya Atthakathà (Commentary) = Sumangalavilàsinì
It. : Itivuttaka
Jà. : Jàtaka (Fausboll's ed.)
Kv. : Kathàvatthu
Mv. : Mahàvamsa
M. : Majjhima Nikàya
MA. : Majjhima Nikàya Atthakathà (Commentary) = Papancasùdanì
Miln. : Milinda-panhà
Netti. : Netti-pakarana
Nd1. : Mahà Niddesa
Nd2. : Cùla Niddesa (Siamese ed.)
Ps. : Patisambhidàmagga
PsA. : Patisambhidàmagga Atthakathà (Commentary) = Saddhammappakàsinì (Sinhalese Hewavitarne ed.)
Ptn1. : Patthàna, Tika Patthàna
Ptn2. : Patthàna, Duka Patthàna (Siamese and Burmese eds.)
Pm. : Visuddhimagga Atthakathà (Commentary) = Mahà Tìkà (Vis. Chs. I to XVII Sinhalese Vidyodaya ed.; Chs. XVIII to XXIII Burmese ed.)
Pe. : Petakopadesa
Pv. : Petavatthu
S. : Samyutta Nikàya
SA. : Samyutta Nikàya Atthakathà (Commentary) = Sàratthappakàsinì
Sn. : Sutta-nipàta
SnA. : Sutta-nipàta Atthakathà (Commentary) = Paramatthajotikà
Thag. : Thera-gàthà
Ud. : Udàna
Vbh. : Vibhanga
VbhA. : Vibhanga Atthakathà (Commetary) = Sammohavinodanì
VbhAA. : Vibhanga Tìkà (Sub-commentary) = Mùla-Tikà (pt. 2)
Vv. : Vimàna-vatthu
Vin. i. : Vinaya Pitaka (3) - Mahàvagga
Vin. ii. : Vinaya Pitaka (4) - Cùlavagga
Vin. iii. : Vinaya Pitaka (1) - Suttavibhanga 1
Vin. iv. : Vinaya Pitaka (2) - Suttavibhanga 2
Vin. v. : Vinaya Pitaka (5) - Parivàra
Vis. : Visuddhimagga (P.T.S. ed. and Harvard Oriental Series ed.)
-ooOoo-
Dẫn Nhập
Thanh Tịnh Ðạo là gì? Chữ Thanh tịnh ở đây phải hiểu là Niết bàn. Vì Niết bàn không có tất cả cấu uế, nên hoàn toàn Thanh tịnh. Thanh Tịnh Ðạo là con đường dẫn đến sự thanh tịnh ấy, cách đi đến gọi là con đường.
Trong vài trường hợp, con đường dẫn đến thanh tịnh được dạy là do tuệ quán (quán về vô thường, khổ và vô ngã), như kinh nói:
"Tất cả hành vô thường
Với tuệ quán thấy vậy
Ðau khổ được nhàm chán
Chính con đường Thanh tịnh". (Pháp cú 277)
Khi thì được bảo là do Thiền định và Trí tuệ, như kinh nói:
"Người có Thiền có trí,
Nhất định gần Niết bàn". (Pc. 372)
Khi thì được giảng là do nghiệp, như nói:
"Nghiệp minh và chánh pháp
Giới, tối thượng sinh mạng
Chính nhờ các pháp trên
Khiến chúng sinh thanh tịnh". (Trung bộ III. 262)
Khi thì được giảng là do giới, như nói:
"Ai luôn luôn trì giới
Trí tuệ khéo định tĩnh
Chí siêng năng dõng mãnh
Vượt bộc lưu khó vượt".
Và có trường hợp được giảng là do Bốn niệm xứ, như khi nói: "Nầy các Tỳ kheo, con đường nầy là con đường duy nhất để thanh tịnh các hữu tình... để chứng Niết bàn, đó là Bốn niệm xứ (Trường bộ II, 290)
Nhưng nếu nói một cách đầy đủ thì con đường dẫn đến thanh tịnh chính là 3 môn học vô lậu: Giới, Ðịnh và Tuệ. Sự tu tập tăng thượng giới được nêu bằng Giới; tu tập tăng thượng tâm được nêu bằng Ðịnh; và tu tập tăng thượng tuệ, bằng Tuệ. Hoặc là: Giáo lý tốt đẹp ở chặng đầu được nêu bằng Giới; giáo lý tốt đẹp ở chặng giữa được nêu bằng Ðịnh; và giáo lý tốt đẹp ở chặng cuối được nêu bằng Tuệ. Chính bài kệ 183 trong kinh Pháp cú tóm tắt 3 ý nghĩa trên:
"Không làm mọi điều ác
Thành tựu các hạnh lành
Giữ tâm ý trong sạch
Chính lời chư Phật dạy".
Câu kệ đầu nói về Giới, câu thứ hai nói về Ðịnh và hai câu cuối nói về Tuệ.
Lại nữa, điều kiện cần thiết để chứng ba minh chính là Giới; điều kiện cần thiết để đạt được lục thông là Ðịnh; và điều kiện cần thiết để đắc bốn Vô ngại giải chính là Tuệ. Hoặc là: Ðề phòng vi phạm những ô nhiễm là nhờ Giới; đề phòng các ám ảnh của ô nhiễm là nhờ Ðịnh; đề phòng các tùy miên (khuynh hướng nội tại dẫn đến ô nhiễm) là nhờ Tuệ.
Kinh còn nói rõ: Lý do đắc quả Dự lưu và Nhất lai là nhờ Giới, quả Bất hoàn là nhờ Ðịnh, và quả A La Hán là nhờ Tuệ. Vì bậc Dự lưu và Nhất lai được gọi là " người thành tựu viên mãn các phẩm loại của Giới" bậc Bất hoàn gọi là "viên mãn Ðịnh", và A La Hán gọi là " viên mãn Tuệ".
-ooOoo-
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét