Thứ Bảy, 23 tháng 4, 2011

KINH KIM CANG/ NGUYEN VAN/KHONG CHU GIAI/(1)




Kinh Kim Cang

(Kinh Kim Cương)

ĐOẠN 1

ÂM :

PHÁP HỘI NHÂN DO

Như thị ngã văn :
          Nhất thời Phật tại Xá-vệ quốc, Kỳ thọ Cấp Cô Độc viên dữ đại Tỳ-kheo chúng thiên nhị bách ngũ thập nhân câu. Nhĩ thời Thế Tôn thực thời, trước y trì bát, nhập Xá-vệ đại thành khất thực. Ư kỳ thành trung thứ đệ khất dĩ, hoàn chí bản xứ. Phạn thực ngật, thu y bát, tẩy túc dĩ, phu tòa nhi tọa.

DỊCH :

NGUYÊN DO CỦA PHÁP HỘI

Tôi nghe như vầy :
          Một hôm đức Phật ở nước Xá-vệ (Sràvasti) tại rừng Kỳ-đà (Jeta) trong vườn Cấp Cô Độc cùng với chúng đại Tỳ-kheo là một ngàn hai trăm năm mươi vị. Khi ấy gần đến giờ thọ trai, đức Thế Tôn đắp y mang bát vào đại thành Xá-vệ khất thực. Trong thành ấy, Ngài theo thứ lớp khất thực xong, trở về nơi chúng ở. Thọ trai rồi, Ngài dẹp y bát, rửa chân, trải tòa ngồi.

ĐOẠN 2

ÂM :

THIỆN HIỆN KHẢI THỈNH
          Thời trưởng lão Tu-bồ-đề tại đại chúng trung, tức tùng tòa khởi, thiên đản hữu kiên, hữu tất trước địa, hiệp chưởng cung kính nhi bạch Phật ngôn :

          - Hi hữu Thế Tôn !  Như Lai thiện hộ niệm chư Bồ-tát, thiện phó chúc chư Bồ-tát. Thế Tôn ! Thiện nam tử, thiện nữ nhân, phát A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề tâm, vân hà ưng trụ, vân hà hàng phục kỳ tâm ?

Phật ngôn :
          - Thiện tai, thiện tai !  Tu-bồ-đề, như nhữ sở thuyết, Như Lai thiện hộ niệm chư Bồ-tát, thiện phó chúc chư Bồ-tát, nhữ kim đế thính, đương vị nhữ thuyết. Thiện nam tử, thiện nữ nhân phát A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề tâm, ưng như thị trụ, như thị hàng phục kỳ tâm.

- Duy nhiên, Thế Tôn !  Nguyện nhạo dục văn.

DỊCH :
THIỆN HIỆN THƯA HỎI
          Khi ấy trưởng lão Tu-bồ-đề (Subhuti) ở trong đại chúng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, bày vai áo bên mặt, gối mặt quì xuống đất, chấp tay cung kính bạch Phật rằng :

          - Thế Tôn !  Rất ít có, đức Như Lai khéo hộ niệm các vị Bồ-tát, khéo phó chúc các vị Bồ-tát. Bạch Thế Tôn !  Người thiện nam, người thiện nữ phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nên làm sao trụ, làm sao hàng phục tâm kia?

Đức Phật bảo :
          Lành thay, lành thay !  Này Tu-bồ-đề, như lời ông nói, Như Lai khéo hộ niệm các vị Bồ-tát, khéo phó chúc các vị Bồ-tát, nay ông hãy lắng nghe cho kỹ, ta sẽ vì ông mà nói. Người thiện nam, thiện nữ phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nên như thế mà trụ, như thế mà hàng phục tâm kia.

- Xin vâng, bạch Thế Tôn !  Con nguyện thích được nghe.

ĐOẠN 3

ÂM :

ĐẠI THỪA CHÁNH TÔNG
Phật cáo Tu-bồ-đề :
          - Chư Bồ-tát ma-ha-tát ưng như thị hàng phục kỳ tâm. Sở hữu nhất thiết chúng sanh chi loại, nhược noãn sanh, nhược thai sanh, nhược thấp sanh, nhược hóa sanh, nhược hữu sắc, nhược vô sắc, nhược hữu tưởng, nhược vô tưởng, nhược phi hữu tưởng phi vô tưởng, ngã giai linh nhập Vô dư Niết-bàn nhi diệt độ chi. Như thị diệt độ vô lượng, vô số, vô biên chúng sanh, thực vô chúng sanh đắc diệt độ giả. Hà dĩ cố ?  Tu-bồ-đề, nhược Bồ-tát hữu ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng tức phi Bồ-tát.

DỊCH :
CHÁNH TÔNG CỦA ĐẠI THỪA

Phật bảo Tu-bồ-đề :
          - Các vị Bồ-tát lớn nên như thế mà hàng phục tâm kia. Có tất cả các loài chúng sanh hoặc loài sanh bằng trứng, hoặc loài sanh bằng thai, hoặc sanh chỗ ẩm ướt, hoặc hóa sanh, hoặc có hình sắc, hoặc không hình sắc, hoặc có tưởng, hoặc không tưởng, hoặc chẳng có tưởng chẳng không tưởng, ta đều khiến vào Vô dư Niết-bàn mà được diệt độ đó. Diệt độ như thế vô lượng, vô số, vô biên chúng sanh mà thật không có chúng sanh được diệt độ. Vì cớ sao ?  Này Tu-bồ-đề, nếu Bồ-tát còn có tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả tức chẳng phải là Bồ-tát.

ĐOẠN 4

ÂM :

DIỆU HẠNH VÔ TRỤ
          Phục thứ Tu-bồ-đề, Bồ-tát ư pháp ưng vô sở trụ hành ư bố thí, sở vị bất trụ sắc bố thí, bất trụ thanh hương vị xúc pháp bố thí. Tu-bồ-đề, Bồ-tát ưng như thị bố thí, bất trụ ư tướng. Hà dĩ cố? Nhược Bồ-tát bất trụ tướng bố thí, kỳ phước đức bất khả tư lương.

Tu-bồ-đề, ư ý vân hà ?  Đông phương hư không khả tư lương phủ ?

- Phất dã Thế Tôn !
          - Tu-bồ-đềNam Tây Bắc phương tứ duy thượng hạ hư không, khả tư lương phủ ?

- Phất dã Thế Tôn !
          - Tu-bồ-đề, Bồ-tát vô trụ tướng bố thí, phước đức diệc phục như thị bất khả tư lương. Tu-bồ-đề, Bồ-tát đản ưng như sở giáo trụ.

DỊCH :

DIỆU HẠNH KHÔNG CHỖ TRỤ
          Lại nữa Tu-bồ-đề, Bồ-tát đối với pháp nên không có chỗ trụ mà làm việc bố thí, gọi là chẳng trụ nơi sắc để bố thí, chẳng trụ thanh hương vị xúc pháp để bố thí. Này Tu-bồ-đề, Bồ-tát nên như thế mà bố thí, chẳng trụ nơi tướng. Vì cớ sao ?  Nếu Bồ-tát bố thí chẳng trụ tướng thì phước đức không thể nghĩ lường.

          Tu-bồ-đề, ý ông nghĩ sao ? Hư không ở phương Đông có thể nghĩ lường được chăng ?

- Bạch Thế Tôn, không vậy.
          - Này Tu-bồ-đề, hư không phương Nam, phương Tây, phương Bắc, bốn phía trên dưới có thể nghĩ lường được chăng ?

- Bạch Thế Tôn, không vậy.
          - Này Tu-bồ-đề, Bồ-tát không trụ tướng mà bố thí, phước đức cũng lại như thế, không thể nghĩ lường. Này Tu-bồ-đề, Bồ-tát chỉ nên như lời dạy mà trụ.

ĐOẠN 5

ÂM :

NHƯ LÝ THẬT KIẾN

Tu-bồ-đề, ư ý vân hà ?  Khả dĩ thân tướng kiến Như Lai phủ ?
          - Phất dã Thế Tôn !  Bất khả dĩ thân tướng đắc kiến Như Lai. Hà dĩ cố ?  Như Lai sở thuyết thân tướng tức phi thân tướng.

Phật cáo Tu-bồ-đề :
          - Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng. Nhược kiến chư tướng phi tướng tắc kiến Như Lai.

DỊCH :

THẤY LẼ THẬT ĐÚNG LÝ
          Này Tu-bồ-đề, ý ông nghĩ sao ?  Có thể do thân tướng mà thấy Như Lai chăng ?

          - Bạch Thế Tôn, không phải vậy. Không thể do thân tướng thấy được Như Lai. Vì cớ sao? Như Lai đã nói thân tướng tức không phải thân tướng.

Phật bảo Tu-bồ-đề :
          - Phàm những gì có tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng chẳng phải tướng tức thấy Như Lai.

ĐOẠN 6

ÂM :

CHÁNH TÍN HI HỮU

Tu-bồ-đề bạch Phật ngôn :
          - Thế Tôn !  Phả hữu chúng sanh, đắc văn như thị ngôn thuyết, chương cú, sanh thật tín phủ ?

Phật cáo Tu-bồ-đề :
          - Mạc tác thị thuyết. Như Lai diệt hậu, hậu ngũ bách tuế, hữu trì giới tu phước giả, ư thử chương cú năng sanh tín tâm, dĩ thử vi thật, đương tri thị nhân bất ư nhất Phật, nhị Phật, tam tứ ngũ Phật nhi chủng thiện căn, dĩ ư vô lượng thiên vạn Phật sở, chủng chư thiện căn. Văn thị chương cú, nãi chí nhất niệm sanh tịnh tín giả, Tu-bồ-đề, Như Lai tất tri, tất kiến thị chư chúng sanh đắc như thị vô lượng phước đức.

          Hà dĩ cố ?  Thị chư chúng sanh vô phục ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng, vô pháp tướng diệc vô phi pháp tướng.

          Hà dĩ cố ?  Thị chư chúng sanh, nhược tâm thủ tướng tắc vi trước ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả. Nhược thủ pháp tướng tức trước ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả. Hà dĩ cố ?  Nhược thủ phi pháp tướng tức trước ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả. Thị cố bất ưng thủ pháp, bất ưng thủ phi pháp.

          Dĩ thị nghĩa cố, Như Lai thường thuyết: Nhữ đẳng Tỳ-kheo tri ngã thuyết pháp như phiệt dụ giả, pháp thượng ưng xả, hà huống phi pháp.

DỊCH :

CHÁNH TÍN ÍT CÓ

(Người tin đúng rất ít có.)

Ngài Tu-bồ-đề bạch Phật rằng :
          - Bạch Thế Tôn, vả lại có chúng sanh được nghe những lời nói và chương cú như thế, sanh lòng tin chân thật chăng ?

Phật bảo Tu-bồ-đề :
          - Chớ nói như thế. Sau khi Như Lai diệt độ, sau khoảng năm trăm năm, có người giữ giới, tu phước, đối với những chương cú này hay sanh lòng tin cho đây là thật, nên biết người ấy không phải ở nơi một đức Phật, hai đức Phật, ba, bốn, năm đức Phật gieo trồng căn lành mà đã ở chỗ vô lượng ngàn muôn đức Phật gieo trồng căn lành. Người nghe chương cú này cho đến một niệm sanh lòng tin thanh tịnh, này Tu-bồ-đề, Như Lai ắt biết, ắt thấy các chúng sanh ấy được vô lượng phước đức như thế.

          Vì cớ sao ?  Vì các chúng sanh ấy không còn có tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả, không có tướng pháp cũng không tướng phi pháp.

          Vì cớ sao ?  Vì nếu các chúng sanh ấy, tâm còn chấp tướng là còn chấp ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả. Nếu còn chấp tướng pháp tức còn chấp ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả. Vì cớ sao ?  Nếu còn chấp tướng phi pháp tức còn chấp ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả. Thế nên không nên chấp pháp, không nên chấp phi pháp.

          Bởi do nghĩa ấy, Như Lai thường nói: Tỳ-kheo các ông nên biết, ta nói pháp ví dụ như chiếc bè, pháp còn nên bỏ, huống là phi pháp.

ĐOẠN 7

ÂM :

VÔ ĐẮC VÔ THUYẾT
          Tu-bồ-đề, ư ý vân hà ?  Như Lai đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề da ?  Như Lai hữu sở thuyết pháp da ?

Tu-bồ-đề ngôn :
          - Như ngã giải Phật sở thuyết nghĩa, vô hữu định pháp, danh A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề, diệc vô hữu định pháp Như Lai khả thuyết. Hà dĩ cố ?  Như Lai sở thuyết pháp, giai bất khả thủ, bất khả thuyết, phi pháp, phi phi pháp. Sở dĩ giả hà ?  Nhất thiết Hiền Thánh giai dĩ vô vi pháp nhi hữu sai biệt.

DỊCH :

KHÔNG ĐƯỢC, KHÔNG NÓI
          Này Tu-bồ-đề, ý ông nghĩ sao ?  Như Lai được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác chăng ?  Như Lai có nói pháp chăng ?

Tu-bồ-đề thưa :
          - Như con hiểu qua nghĩa Phật nói, không có pháp nhất định tên là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cũng không có pháp nhất định Như Lai có thể nói. Vì cớ sao ? Vì pháp Như Lai nói đều không thể chấp, không thể nói, chẳng phải pháp, chẳng phải phi pháp. Vì cớ sao ?  Vì tất cả bậc Hiền Thánh đều do pháp vô vi mà có sai biệt.

ĐOẠN 8

ÂM :

Y PHÁP XUẤT SANH
          - Tu-bồ-đề, ư ý vân hà ?  Nhược nhân mãn tam thiên đại thiên thế giới thất bảo, dĩ dụng bố thí, thị nhân sở đắc phước đức, ninh vi đa phủ ?

Tu-bồ-đề ngôn :
          - Thậm đa, Thế Tôn !  Hà dĩ cố ?  Thị phước đức tức phi phước đức tánh, thị cố Như Lai thuyết phước đức đa.

          - Nhược phục hữu nhân ư thử kinh trung thọ trì nãi chí tứ cú kệ đẳng, vị tha nhân thuyết, kỳ phước thắng bỉ. Hà dĩ cố ?  Tu-bồ-đề, nhất thiết chư Phật cập chư Phật A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề pháp, giai tùng thử kinh xuất. Tu-bồ-đề, sở vị Phật pháp giả tức phi Phật pháp.

DỊCH :

Y NƠI CHÁNH PHÁP MÀ SANH RA TẤT CẢ QUẢ VỊ
          - Này Tu-bồ-đề, ý ông nghĩ sao ?  Nếu có người dùng bảy báu đầy cả tam thiên đại thiên thế giới để bố thí, người ấy được phước đức thật nhiều chăng ?

 Tu-bồ-đề thưa :
          - Bạch Thế Tôn rất nhiều !  Vì cớ sao ?  Vì phước đức ấy tức chẳng phải là tánh phước đức, thế nên Như Lai nói phước đức nhiều.

          - Nếu lại có người ở trong kinh này, thọ trì cho đến bốn câu kệ v.v… vì người khác giảng nói thì phước đức này còn hơn phước đức của người kia. Vì cớ sao ?  Này Tu-bồ-đề, tất cả chư Phật và pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác của chư Phật đều từ nơi kinh này ra. Này Tu-bồ-đề, nói là Phật pháp đó tức chẳng phải Phật pháp.

ĐOẠN 9

ÂM :

NHẤT TƯỚNG VÔ TƯỚNG
          Tu-bồ-đề, ư ý vân hà ?  Tu-đà-hoàn năng tác thị niệm ngã đắc Tu-đà-hoàn quả phủ ?

Tu-bồ-đề ngôn :
          - Phất dã Thế Tôn !  Hà dĩ cố ?  Tu-đà-hoàn danh vi Nhập lưu nhi vô sở nhập, bất nhập sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, thị danh Tu-đà-hoàn.

          - Tu-bồ-đề, ư ý vân hà ?  Tư-đà-hàm năng tác thị niệm ngã đắc Tư-đà-hàm quả phủ ?

Tu-bồ-đề ngôn :
          - Phất dã Thế Tôn! Hà dĩ cố? Tư-đà-hàm danh Nhất vãng lai nhi thật vô vãng lai, thị danh Tư-đà-hàm.

          - Tu-bồ-đề, ư ý vân hà ?  A-na-hàm năng tác thị niệm ngã đắc A-na-hàm quả phủ ?

Tu-bồ-đề ngôn :
          - Phất dã Thế Tôn !  Hà dĩ cố ?  A-na-hàm danh vi Bất lai, nhi thật vô bất lai, thị cố danh A-na-hàm.

          - Tu-bồ-đề, ư ý vân hà ? A-la-hán năng tác thị niệm ngã đắc A-la-hán đạo phủ ?

Tu-bồ-đề ngôn :
          - Phất dã Thế Tôn !  Hà dĩ cố ?  Thật vô hữu pháp danh A-la-hán. Thế Tôn ! Nhược A-la-hán tác thị niệm :  ngã đắc A-la-hán đạo, tức vi trước ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả. Thế Tôn! Phật thuyết ngã đắc Vô tránh tam-muội, nhân trung tối vi đệ nhất, thị đệ nhất ly dục A-la-hán. Thế Tôn !  Ngã bất tác thị niệm ngã thị ly dục A-la-hán. Thế Tôn !  Ngã nhược tác thị niệm :  ngã đắc A-la-hán đạo, Thế Tôn tắc bất thuyết Tu-bồ-đề thị nhạo A-lan-na hạnh giả. Dĩ Tu-bồ-đề thật vô sở hành, nhi danh Tu-bồ-đề thị nhạo A-lan-na hạnh.

DỊCH :

MỘT TƯỚNG KHÔNG TƯỚNG
          Này Tu-bồ-đề, ý ông nghĩ sao ?  Tu-đà-hoàn hay khởi nghĩ thế này :  “ta được quả Tu-đà-hoàn” chăng ?

Tu-bồ-đề thưa :
          - Bạch Thế Tôn, không vậy !  Vì cớ sao ?  Tu-đà-hoàn gọi là Nhập lưu mà không có chỗ nhập, chẳng nhập sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, ấy gọi là Tu-đà-hoàn.

          - Tu-bồ-đề, ý ông nghĩ sao ?  Tư-đà-hàm hay khởi nghĩ thế này :  “ta được quả Tư-đà-hàm” chăng ?

Tu-bồ-đề thưa :
          - Bạch Thế Tôn, không vậy !  Vì cớ sao ?  Vì Tư-đà-hàm tên là Nhất vãng lai mà thật không có vãng lai, ấy gọi là Tư-đà-hàm.

          - Tu-bồ-đề, ý ông nghĩ sao ?  A-na-hàm hay khởi nghĩ thế này :  “ta được quả A-na-hàm” chăng ?

Tu-bồ-đề thưa :
          - Bạch Thế Tôn, không vậy !  Vì cớ sao ?  A-na-hàm tên là Bất lai mà thật không có bất lai, thế nên tên A-na-hàm.

          - Tu-bồ-đề, ý ông nghĩ sao ?  A-la-hán hay khởi nghĩ thế này: “ta được đạo A-la-hán” chăng ?

Tu-bồ-đề thưa :
          - Bạch Thế Tôn, không vậy !  Vì cớ sao ?  Thật không có pháp tên là A-la-hán. Bạch Thế Tôn nếu A-la-hán khởi nghĩ thế này: ta được đạo A-la-hán, tức là còn chấp ngã nhân chúng sanh thọ giả. Bạch Thế Tôn !  Phật nói con được Vô tránh tam-muội là bậc đệ nhất trong số người đó, là A-la-hán ly dục đệ nhất. Bạch Thế Tôn !  Con không khởi nghĩ con là ly dục A-la-hán. Bạch Thế Tôn !  Nếu con khởi nghĩ :  con được đạo A-la-hán, Thế Tôn ắt chẳng nói Tu-bồ-đề là người ưa hạnh A-lan-na. Do Tu-bồ-đề thật không có sở hành nên gọi là Tu-bồ-đề ưa hạnh A-lan-na.

ĐOẠN 10

ÂM :

TRANG NGHIÊM TỊNH ĐỘ

Phật cáo Tu-bồ-đề :
          - Ư ý vân hà ?  Như Lai tích tại Nhiên Đăng Phật sở ư pháp hữu sở đắc phủ ?

          - Phất dã Thế Tôn !  Như Lai tại Nhiên Đăng Phật sở, ư pháp thật vô sở đắc.

          - Tu-bồ-đề, ư ý vân hà ?  Bồ-tát trang nghiêm Phật độ phủ ?

          - Phất dã Thế Tôn !  Hà dĩ cố ?  Trang nghiêm Phật độ giả, tức phi trang nghiêm, thị danh trang nghiêm.

          - Thị cố Tu-bồ-đề, chư Bồ-tát ma-ha-tát ưng như thị sanh thanh tịnh tâm, bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm, ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm. Tu-bồ-đề, thí như hữu nhân, thân như Tu-di sơn vương, ư ý vân hà ?  Thị thân vi đại phủ ?

Tu-bồ-đề ngôn :
          - Thậm đại, Thế Tôn !  Hà dĩ cố ?  Phật thuyết phi thân, thị danh đại thân.

DỊCH :

TRANG NGHIÊM TỊNH ĐỘ

Phật hỏi Tu-bồ-đề :
          - Ý ông nghĩ sao ?  Như Lai thuở xưa ở chỗ đức Phật Nhiên Đăng, đối với pháp, có sở đắc chăng ?

          - Bạch Thế Tôn, không vậy !  Như Lai ở nơi đức Phật Nhiên Đăng, đối với pháp, thật không có sở đắc.

- Tu-bồ-đề, ý ông nghĩ sao ?  Bồ-tát trang nghiêm cõi Phật chăng ?
          - Bạch Thế Tôn, không vậy !  Vì cớ sao ?  Trang nghiêm cõi Phật tức không phải trang nghiêm, ấy gọi là trang nghiêm.

          - Thế nên Tu-bồ-đề, các Bồ-tát lớn nên như thế mà sanh tâm thanh tịnh, không nên trụ nơi sắc sanh tâm, không nên trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm, nên không có chỗ trụ mà sanh tâm kia. Tu-bồ-đề, ví như có người thân to như núi chúa Tu-di (Sumeru), ý ông nghĩ sao ?  Thân ấy là lớn chăng ?

Tu-bồ-đề thưa :
          - Rất lớn, bạch Thế Tôn !  Vì cớ sao ?  Phật nói chẳng phải thân, ấy gọi là thân lớn.

ĐOẠN 11

ÂM :

VÔ VI PHƯỚC THẮNG
          - Tu-bồ-đề, như Hằng hà trung sở hữu sa số, như thị sa đẳng Hằng hà. Ư ý vân hà ? Thị chư Hằng hà sa, ninh vi đa phủ ?

Tu-bồ-đề ngôn :
          - Thậm đa, Thế Tôn !  Đản chư Hằng hà, thượng đa vô số, hà huống kỳ sa.

          - Tu-bồ-đề, ngã kim thật ngôn cáo nhữ, nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, dĩ thất bảo mãn nhĩ sở Hằng hà sa số tam thiên đại thiên thế giới, dĩ dụng bố thí, đắc phước đa phủ ?

Tu-bồ-đề ngôn :

- Thậm đa, Thế Tôn !

Phật cáo Tu-bồ-đề :
          - Nhược thiện nam tử, thiện nữ nhân ư thử kinh trung, nãi chí thọ trì tứ cú kệ đẳng, vị tha nhân thuyết, nhi thử phước đức thắng tiền phước đức.

DỊCH :

PHƯỚC VÔ VI LÀ HƠN HẾT
          - Này Tu-bồ-đề, như trong sông Hằng có bao nhiêu số cát, số sông Hằng bằng số cát như thế, ý ông nghĩ sao ?  Số cát của các sông Hằng ấy thật là nhiều chăng ?

Tu-bồ-đề thưa :
          - Bạch Thế Tôn, rất nhiều !  Chỉ các sông Hằng còn nhiều vô số, huống là số cát kia.

          - Này Tu-bồ-đề, nay ta bảo thật với ông, nếu có người thiện nam, thiện nữ đem bảy báu đầy dẫy tam thiên đại thiên thế giới bằng số cát những sông Hằng kia ra bố thí thì được phước nhiều chăng ?

Tu-bồ-đề thưa :

- Bạch Thế Tôn, rất nhiều !

Phật bảo Tu-bồ-đề :
          - Nếu người thiện nam thiện nữ, đối trong kinh này cho đến thọ trì bốn câu kệ v.v… vì người khác giảng nói, phước đức này nhiều hơn phước đức trước.

ĐOẠN 12

ÂM :

TÔN TRỌNG CHÁNH GIÁO
          Phục thứ Tu-bồ-đề !  Tùy thuyết thị kinh nãi chí tứ cú kệ đẳng, đương tri thử xứ, nhất thiết thế gian thiên nhân a-tu-la giai ưng cúng dường như Phật tháp miếu, hà huống hữu nhân tận năng thọ trì, độc tụng. Tu-bồ-đề !  Đương tri thị nhân thành tựu tối thượng đệ nhất hi hữu chi pháp. Nhược thị kinh điển sở tại chi xứ tức vi hữu Phật, nhược tôn trọng đệ tử.

DỊCH :

TÔN TRỌNG KINH ĐIỂN CHÂN CHÁNH
          Lại nữa này Tu-bồ-đề, tùy nơi nói kinh này cho đến bốn câu kệ v..v… nên biết chỗ này, tất cả thế gian trời, người, a-tu-la đều nên cúng dường như tháp miếu của Phật, huống nữa có người trọn hay thọ trì đọc tụng. Này Tu-bồ-đề, nên biết người ấy thành tựu pháp tối thượng đệ nhất hi hữu. Nếu kinh này ở chỗ nào ắt là có Phật hoặc là những đệ tử lớn của Phật.

ĐOẠN 13

ÂM :

NHƯ PHÁP THỌ TRÌ

Nhĩ thời Tu-bồ-đề bạch Phật ngôn :

- Thế Tôn !  Đương hà danh thử kinh, ngã đẳng vân hà phụng trì ?

Phật cáo Tu-bồ-đề :
          - Thị kinh danh vi Kim Cang Bát-nhã Ba-la-mật, dĩ thị danh tự nhữ đương phụng trì. Sở dĩ giả hà ?  Tu-bồ-đề! Phật thuyết Bát-nhã ba-la-mật tức phi Bát-nhã ba-la-mật, thị danh Bát-nhã ba-la-mật. Tu-bồ-đề, ư ý vân hà ?  Như Lai hữu sở thuyết pháp phủ ?

Tu-bồ-đề bạch Phật ngôn :

- Thế Tôn! Như Lai vô sở thuyết.
          - Tu-bồ-đề, ư ý vân hà ?  Tam thiên đại thiên thế giới, sở hữu vi trần, thị vi đa phủ ?

Tu-bồ-đề ngôn :

- Thậm đa, Thế Tôn !
          - Tu-bồ-đề !  Chư vi trần, Như Lai thuyết phi vi trần thị danh vi trần. Như Lai thuyết thế giới phi thế giới thị danh thế giới. Tu-bồ-đề, ư ý vân hà ?  Khả dĩ tam thập nhị tướng kiến Như Lai phủ ?

          - Phất dã Thế Tôn !  Bất khả dĩ tam thập nhị tướng đắc kiến Như Lai. Hà dĩ cố ? Như Lai thuyết tam thập nhị tướng, tức thị phi tướng, thị danh tam thập nhị tướng.

          - Tu-bồ-đề, nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, dĩ Hằng hà sa đẳng thân mạng bố thí, nhược phục hữu nhân ư thử kinh trung nãi chí thọ trì tứ cú kệ đẳng, vị tha nhân thuyết, kỳ phước thậm đa.

DỊCH :

ĐÚNG PHÁP THỌ TRÌ

Khi ấy ngài Tu-bồ-đề bạch Phật rằng :
          - Bạch Thế Tôn, thế nào là tên của kinh này, chúng con làm sao phụng trì ?

Phật bảo Tu-bồ-đề :
          - Kinh này tên là Kim Cang Bát-nhã Ba-la-mật, do danh tự ấy ông nên phụng trì. Vì cớ sao ?  Này Tu-bồ-đề, Phật nói Bát-nhã ba-la-mật tức không phải Bát-nhã ba-la-mật, ấy gọi là Bát-nhã ba-la-mật. Này Tu-bồ-đề, ý ông nghĩ sao ?  Như Lai có nói pháp chăng ?

Tu-bồ-đề bạch Phật rằng :

- Bạch Thế Tôn, Như Lai không có nói pháp.
          - Này Tu-bồ-đề, ý ông nghĩ sao ?  Tam thiên đại thiên thế giới có bao nhiêu vi trần, ấy là nhiều chăng ?

Tu-bồ-đề thưa :

- Bạch Thế Tôn, rất nhiều !
          - Này Tu-bồ-đề, các vi trần Như Lai nói không phải vi trần, ấy gọi là vi trần. Như Lai nói thế giới không phải thế giới ấy gọi là thế giới. Này Tu-bồ-đề, ý ông nghĩ sao ?  Có thể do ba mươi hai tướng mà thấy Như Lai chăng ?

          - Bạch Thế Tôn, không vậy !  Không thể do ba mươi hai tướng được thấy Như Lai. Vì cớ sao ?  Như Lai nói ba mươi hai tướng tức không phải ba mươi hai tướng ấy gọi là ba mươi hai tướng.

          - Này Tu-bồ-đề nếu có người thiện nam, người thiện nữ đem thân mạng nhiều như cát sông Hằng để bố thí, hoặc lại có người ở trong kinh này cho đến thọ trì bốn câu kệ v.v… vì người khác nói thì phước này rất là nhiều.

ĐOẠN 14

ÂM :

LY TƯỚNG TỊCH DIỆT
          Nhĩ thời Tu-bồ-đề văn thuyết thị kinh, thâm giải nghĩa thú, thế lệ bi khấp, nhi bạch Phật ngôn :

          - Hi hữu Thế Tôn !  Phật thuyết như thị thậm thâm kinh điển, ngã tùng tích lai sở đắc tuệ nhãn, vị tằng đắc văn như thị chi kinh.

          Thế Tôn !  Nhược phục hữu nhân đắc văn thị kinh, tín tâm thanh tịnh tắc sanh Thật tướng, đương tri thị nhân thành tựu đệ nhất hi hữu công đức. Thế Tôn !  Thị thật tướng giả tức thị phi tướng, thị cố Như Lai thuyết danh thật tướng.

          Thế Tôn !  Ngã kim đắc văn như thị kinh điển, tín giải thọ trì, bất túc vi nan. Nhược đương lai thế, hậu ngũ bách tuế, kỳ hữu chúng sanh đắc văn thị kinh, tín giải thọ trì, thị nhân tắc vi đệ nhất hi hữu. Hà dĩ cố ?  Thử nhân vô ngã tướng, vô nhân tướng, vô chúng sanh tướng, vô thọ giả tướng. Sở dĩ giả hà ?  Ngã tướng tức thị phi tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng tức thị phi tướng. Hà dĩ cố ?  Ly nhất thiết chư tướng tức danh chư Phật.

Phật cáo Tu-bồ-đề :
          - Như thị, như thị !  Nhược phục hữu nhân đắc văn thị kinh bất kinh, bất bố, bất úy, đương tri thị nhân, thậm vi hi hữu !  Hà dĩ cố ?

          Tu-bồ-đề !  Như Lai thuyết đệ nhất ba-la-mật, tức phi đệ nhất ba-la-mật, thị danh đệ nhất ba-la-mật. Tu-bồ-đề !  Nhẫn nhục ba-la-mật, Như Lai thuyết phi nhẫn nhục ba-la-mật thị danh nhẫn nhục ba-la-mật. Hà dĩ cố ?

          Tu-bồ-đề !  Như ngã tích vi Ca-lợi vương cát tiệt thân thể, ngã ư nhĩ thời vô ngã tướng, vô nhân tướng, vô chúng sanh tướng, vô thọ giả tướng. Hà dĩ cố ?  Ngã ư vãng tích tiết tiết chi giải thời, nhược hữu ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng, ưng sanh sân hận.

          Tu-bồ-đề !  Hựu niệm quá khứ, ư ngũ bách thế tác nhẫn nhục tiên nhân, ư nhĩ sở thế vô ngã tướng, vô nhân tướng, vô chúng sanh tướng, vô thọ giả tướng.

          Thị cố, Tu-bồ-đề !  Bồ-tát ưng ly nhất thiết tướng phát A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề tâm, bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thanh hương vị xúc pháp sanh tâm, ưng sanh vô sở trụ tâm. Nhược tâm hữu trụ, tắc vi phi trụ. Thị cố Phật thuyết Bồ-tát tâm bất ưng trụ sắc bố thí. Tu-bồ-đề! Bồ-tát vị lợi ích nhất thiết chúng sanh, ưng như thị bố thí. Như Lai thuyết nhất thiết chư tướng tức thị phi tướng hựu thuyết nhất thiết chúng sanh tức phi chúng sanh.

          Tu-bồ-đề !  Như Lai thị chân ngữ giả, thật ngữ giả, như ngữ giả, bất cuống ngữ giả, bất dị ngữ giả. Tu-bồ-đề! Như Lai sở đắc pháp, thử pháp vô thật vô hư.

          Tu-bồ-đề !  Nhược Bồ-tát tâm trụ ư pháp nhi hành bố thí như nhân nhập ám tắc vô sở kiến. Nhược Bồ-tát tâm bất trụ pháp nhi hành bố thí như nhân hữu mục, nhật quang minh chiếu, kiến chủng chủng sắc.

          Tu-bồ-đề !  Đương lai chi thế, nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân năng ư thử kinh thọ trì độc tụng tức vi Như Lai dĩ Phật trí tuệ, tất tri thị nhân, tất kiến thị nhân giai đắc thành tựu vô lượng vô biên công đức.

DỊCH :

LÌA TƯỚNG TỊCH DIỆT
          Khi ấy ngài Tu-bồ-đề nghe Phật nói kinh này, hiểu sâu được nghĩa thú, rơi lệ dầm dề bạch Phật rằng :

          - Đức Thế Tôn !  Rất ít có. Phật nói kinh điển sâu xa như thế, con từ trước đến giờ đã được tuệ nhãn mà chưa từng được nghe kinh như thế.

          Bạch Thế Tôn !  Nếu lại có người được nghe kinh này, lòng tin thanh tịnh ắt sanh Thật tướng, nên biết người ấy thành tựu được công đức ít có bậc nhất. Bạch Thế Tôn ! Thật tướng ấy tức không phải tướng, thế nên Như Lai nói tên là thật tướng.

          Bạch Thế Tôn !  Nay con được nghe kinh điển như thế, tin hiểu thọ trì không đủ làm khó. Nếu đời sau, khoảng năm trăm năm về sau, lúc đó có những chúng sanh được nghe kinh này, tin hiểu thọ trì, người ấy ắt là ít có bậc nhất. Vì cớ sao ?  Vì người này không tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả. Vì cớ sao ?  Vì tướng ngã tức không phải tướng, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả tức không phải tướng. Vì sao ?  Vì lìa tất cả tướng tức gọi là chư Phật.

            Phật bảo Tu-bồ-đề :

          - Đúng thế, đúng thế !  Nếu lại có người được nghe kinh này, không kinh, không hãi, không sợ, nên biết người ấy rất là ít có. Vì cớ sao?

          Này Tu-bồ-đề !  Như Lai nói đệ nhất ba-la-mật tức không phải đệ nhất ba-la-mật ấy gọi là đệ nhất ba-la-mật. Tu-bồ-đề !  Nhẫn nhục ba-la-mật, Như Lai nói không phải nhẫn nhục ba-la-mật ấy gọi là nhẫn nhục ba-la-mật. Vì cớ sao ?

          Này Tu-bồ-đề như thuở xưa ta bị vua Ca-lợi (Kali) cắt đứt thân thể, ta khi ấy không có tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả. Vì cớ sao ?  Ta thuở xưa khi thân thể bị cắt ra từng phần nếu còn tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả, lẽ nên sanh sân hận.

          Tu-bồ-đề !  Lại nhớ thuở quá khứ năm trăm đời, ta làm tiên nhân nhẫn nhục, vào thuở ấy không có tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả.

          Thế nên, Tu-bồ-đề !  Bồ-tát nên lìa tất cả tướng mà phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, chẳng nên trụ sắc sanh tâm, chẳng nên trụ thanh hương vị xúc pháp sanh tâm, nên sanh tâm không chỗ trụ. Nếu tâm có trụ ắt là không phải trụ. Thế nên Phật nói tâm Bồ-tát không nên trụ sắc mà bố thí. Tu-bồ-đề! Bồ-tát vì lợi ích tất cả chúng sanh nên như thế mà bố thí. Như Lai nói tất cả các tướng tức là không phải tướng, lại nói tất cả chúng sanh tức không phải chúng sanh.

          Này Tu-bồ-đề !  Như Lai nói lời chân, lời thật, lời như, lời không dối, lời chẳng khác. Này Tu-bồ-đề !  Như Lai được pháp, pháp này không thật, không hư.

          Tu-bồ-đề !  Nếu Bồ-tát tâm trụ nơi pháp mà làm việc bố thí thì như người vào trong tối ắt không thể thấy. Nếu Bồ-tát tâm không trụ pháp mà hành bố thí thì như người có mắt lại thêm ánh sáng mặt trời chiếu soi, thấy các thứ hình sắc.

          Này Tu-bồ-đề !  Ở đời sau nếu có người thiện nam, thiện nữ hay ở trong kinh này thọ trì đọc tụng ắt là Như Lai dùng trí tuệ Phật ắt biết người ấy, ắt thấy người ấy đều được thành tựu vô lượng vô biên công đức.

ĐOẠN 15

ÂM :

TRÌ KINH CÔNG ĐỨC
          Tu-bồ-đề !  Nhược hữu thiện nam tử thiện nữ nhân, sơ nhật phần, dĩ Hằng hà sa đẳng thân bố thí, trung nhật phần phục dĩ Hằng hà sa đẳng thân bố thí, hậu nhật phần diệc dĩ Hằng hà sa đẳng thân bố thí. Như thị vô lượng bách thiên vạn ức kiếp dĩ thân bố thí. Nhược phục hữu nhân văn thử kinh điển, tín tâm bất nghịch, kỳ phước thắng bỉ, hà huống thư tả, thọ trì độc tụng vị nhân giải thuyết.

          Tu-bồ-đề !  Dĩ yếu ngôn chi, thị kinh hữu bất khả tư nghị, bất khả xứng lượng, vô biên công đức, Như Lai vị phát Đại thừa giả thuyết, vị phát Tối thượng thừa giả thuyết. Nhược hữu nhân năng thọ trì độc tụng, quảng vị nhân thuyết, Như Lai tất tri thị nhân, tất kiến thị nhân, giai đắc thành tựu bất khả lượng, bất khả xứng, vô hữu biên, bất khả tư nghị công đức. Như thị nhân đẳng tắc vi hà đảm Như Lai A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề. Hà dĩ cố ?  Tu-bồ-đề !  Nhược nhạo tiểu pháp giả, trước ngã kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến, tức ư thử kinh bất năng thính thọ độc tụng, vị nhân giải thuyết.

          Tu-bồ-đề !  Tại tại xứ xứ, nhược hữu thử kinh, nhất thiết thế gian thiên, nhân, a-tu-la sở ưng cúng dường. Đương tri thử xứ tắc vi thị tháp, giai ưng cung kính tác lễ vi nhiễu, dĩ chư hoa hương nhi tán kỳ xứ.

DỊCH :

CÔNG ĐỨC TRÌ KINH
          Tu-bồ-đề !  Nếu có người thiện nam thiện nữ, buổi sáng đem thân mạng bằng số cát sông Hằng ra bố thí, buổi trưa lại đem thân mạng bằng số cát sông Hằng ra bố thí, buổi chiều cũng đem thân mạng bằng số cát sông Hằng ra bố thí, như thế vô lượng trăm ngàn muôn ức kiếp đem thân mạng bố thí. Nếu lại có người nghe kinh điển này, lòng tin không nghịch, phước của người này hơn phước của người kia, huống là chép viết, thọ trì, đọc tụng, vì người giải nói.

          Này Tu-bồ-đề !  Tóm tắt mà nói, kinh này có công đức vô biên không thể nghĩ, không thể lường. Như Lai vì những người phát tâm Đại thừa mà nói, vì những người phát tâm Tối thượng thừa mà nói. Nếu có người hay thọ trì đọc tụng, rộng vì người nói, Như Lai ắt biết người ấy, ắt thấy người ấy đều được thành tựu công đức không thể lường, không thể tính, không có bờ mé, không thể nghĩ bàn. Những người như thế tức là gánh vác pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác của Phật. Vì cớ sao ?  Này Tu-bồ-đề !  Nếu người thích pháp nhỏ tức chấp ngã, chấp nhân, chấp chúng sanh, chấp thọ giả tức là đối với kinh này không thể lắng nghe, thọ trì, đọc tụng vì người giải nói.

          Này Tu-bồ-đề !  Ở nơi nào nếu có kinh này thì tất cả thế gian trời, người, a-tu-la đều nên cúng dường, nên biết chỗ này tức là tháp, đều nên cung kính làm lễ vây quanh, dùng các thứ hương hoa mà rải cúng nơi ấy.

ĐOẠN 16

ÂM :

NĂNG TỊNH NGHIỆP CHƯỚNG
          Phục thứ Tu-bồ-đề !  Nhược thiện nam tử, thiện nữ nhân thọ trì, độc tụng thử kinh, nhược vi nhân khinh tiện, thị nhân tiên thế tội nghiệp, ưng đọa ác đạo, dĩ kim thế nhân khinh tiện cố, tiên thế tội nghiệp tắc vi tiêu diệt, đương đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.

          Tu-bồ-đề !  Ngã niệm quá khứ vô lượng a-tăng-kỳ kiếp, ư Nhiên Đăng Phật tiền đắc trị bát bách tứ thiên vạn ức na-do-tha chư Phật, tất giai cúng dường thừa sự vô không quá giả. Nhược phục hữu nhân ư hậu mạt thế năng thọ trì độc tụng thử kinh, sở đắc công đức, ư ngã sở cúng dường chư Phật công đức, bách phần bất cập nhất, thiên vạn ức phần, nãi chí toán số thí dụ sở bất năng cập.

           Tu-bồ-đề !  Nhược thiện nam tử, thiện nữ nhân, ư hậu mạt thế, hữu thọ trì độc tụng thử kinh, sở đắc công đức, ngã nhược cụ thuyết giả, hoặc hữu nhân văn tâm tắc cuồng loạn hồ nghi bất tín. Tu-bồ-đề !  Đương tri thị kinh nghĩa bất khả tư nghị, quả báo diệc bất khả tư nghị.

DỊCH :

HAY LÀM SẠCH CÁC NGHIỆP CHƯỚNG
          Lại nữa, này Tu-bồ-đề !  Nếu có người thiện nam, thiện nữ thọ trì đọc tụng kinh này, nếu bị người khinh chê, người này do tội nghiệp đời trước lẽ ra phải đọa trong đường ác, do đời này bị người khinh chê nên tội nghiệp đời trước ắt là tiêu diệt, sẽ được quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

          Này Tu-bồ-đề !  ta nhớ thuở quá khứ vô lượng a-tăng-kỳ kiếp, ở trước đức Phật Nhiên Đăng, ta được gặp tám trăm bốn ngàn muôn ức na-do-tha các đức Phật, ta đều cúng dường thờ phụng không sót một vị nào. Nếu lại có người ở đời mạt pháp sau này hay thọ trì đọc tụng kinh này, được công đức, đối với công đức cúng dường chư Phật của ta, trăm phần chẳng bằng một, ngàn muôn ức phần cho đến toán số thí dụ đều không thể bằng.

           Này Tu-bồ-đề !  Nếu người thiện nam thiện nữ ở đời mạt pháp sau này, có người thọ trì đọc tụng kinh này, được công đức, nếu ta nói cho đủ hoặc có người nghe tâm tất cuồng loạn, hồ nghi, không tin. Này Tu-bồ-đề, nên biết kinh nghĩa này không thể nghĩ bàn nên quả báo cũng không thể nghĩ  bàn.

ĐOẠN 17

ÂM :

CỨU KÍNH VÔ NGÃ

Nhĩ thời Tu-bồ-đề bạch Phật ngôn :
          - Thế Tôn !  Thiện nam tử, thiện nữ nhân phát A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề tâm, vân hà ưng trụ, vân hà hàng phục kỳ tâm ?

Phật cáo Tu-bồ-đề :
          - Thiện nam tử, thiện nữ nhân phát A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề tâm giả, đương sanh như thị tâm, ngã ưng diệt độ nhất thiết chúng sanh, diệt độ nhất thiết chúng sanh dĩ nhi vô hữu nhất chúng sanh thật diệt độ giả. Hà dĩ cố ?  Tu-bồ-đề! Nhược Bồ-tát hữu ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng, tức phi Bồ-tát. Sở dĩ giả hà ?  Tu-bồ-đề !  Thật vô hữu pháp phát A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề tâm giả.

          Tu-bồ-đề !  Ư ý vân hà ?  Như Lai ư Nhiên Đăng Phật sở, hữu pháp đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề phủ ?

          - Phất dã Thế Tôn !  Như ngã giải Phật sở thuyết nghĩa, Phật ư Nhiên Đăng Phật sở, vô hữu pháp đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.

Phật ngôn :
          - Như thị, như thị !  Tu-bồ-đề, thật vô hữu pháp Như Lai đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề. Tu-bồ-đề !  Nhược hữu pháp Như Lai đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề giả, Nhiên Đăng Phật tắc bất dữ ngã thọ ký :  Nhữ ư lai thế đương đắc tác Phật, hiệu Thích-ca Mâu-ni. Dĩ thật vô hữu pháp đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề, thị cố Nhiên Đăng Phật dữ ngã thọ ký, tác thị ngôn :  Nhữ ư lai thế, đương đắc tác Phật, hiệu Thích-ca Mâu-ni. Hà dĩ cố ?  Như Lai giả, tức chư pháp như nghĩa. Nhược hữu nhân ngôn :  Như Lai đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề. Tu-bồ-đề! Thật vô hữu pháp Phật đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề. Tu-bồ-đề ! Như Lai sở đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề, ư thị trung, vô thật vô hư, thị cố Như Lai thuyết :  Nhất thiết pháp giai thị Phật pháp. Tu-bồ-đề !  Sở ngôn nhất thiết pháp giả tức phi nhất thiết pháp, thị cố danh nhất thiết pháp. Tu-bồ-đề !  Thí như nhân thân trường đại.

Tu-bồ-đề ngôn :
          - Thế Tôn !  Như Lai thuyết nhân thân trường đại tắc vi phi đại thân, thị danh đại thân.

          - Tu-bồ-đề !  Bồ-tát diệc như thị. Nhược tác thị ngôn :  Ngã đương diệt độ vô lượng chúng sanh, tức bất danh Bồ-tát. Hà dĩ cố ?  Tu-bồ-đề !  Thật vô hữu pháp danh vi Bồ-tát, thị cố Phật thuyết nhất thiết pháp vô ngã, vô nhân, vô chúng sanh, vô thọ giả.

          Tu-bồ-đề !  Nhược Bồ-tát tác thị ngôn :  Ngã đương trang nghiêm Phật độ, thị bất danh Bồ-tát. Hà dĩ cố ?  Như Lai thuyết trang nghiêm Phật độ giả, tức phi trang nghiêm, thị danh trang nghiêm.

          Tu-bồ-đề !  Nhược Bồ-tát thông đạt vô ngã pháp giả, Như Lai thuyết danh chân thị Bồ-tát.

DỊCH :

TỘT CÙNG KHÔNG CÓ NGÃ

Khi ấy ngài Tu-bồ-đề bạch Phật rằng :
          - Bạch Thế Tôn !  Người thiện nam, người thiện nữ phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác làm sao an trụ, làm sao hàng phục tâm kia ?

Phật bảo Tu-bồ-đề :
          - Người thiện nam, người thiện nữ phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nên sanh tâm như thế này :  Ta nên diệt độ tất cả chúng sanh, diệt độ tất cả chúng sanh rồi mà không có một chúng sanh thật diệt độ. Vì cớ sao ?  Tu-bồ-đề, nếu Bồ-tát còn tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả ắt không phải là Bồ-tát. Vì cớ sao ? Tu-bồ-đề, thật không có pháp phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

          Tu-bồ-đề !  Ý ông nghĩ sao ?  Như Lai ở nơi Phật Nhiên Đăng có pháp được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác chăng ?

          - Bạch Thế Tôn, không vậy !  Như chỗ hiểu của con qua nghĩa Phật nói, Phật ở nơi Phật Nhiên Đăng không có pháp được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Phật bảo :
          - Như thế, như thế !  Tu-bồ-đề, thật không có pháp Như Lai được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Này Tu-bồ-đề !  Nếu có pháp Như Lai được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì đức Phật Nhiên Đăng ắt không thọ ký cho ta :  Ở đời sau, ông sẽ được thành Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni. Do thật không có pháp được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, thế nên đức Phật Nhiên Đăng mới thọ ký cho ta, nói thế này :  Ở đời sau, ông sẽ được thành Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni. Vì cớ sao ?  Như Lai tức là nghĩa Như của các pháp. Nếu có người nói Như Lai được pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, này Tu-bồ-đề, thật không có pháp Phật được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Này Tu-bồ-đề !  Như Lai được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, ở trong ấy không thật, không hư. Thế nên Như Lai nói tất cả pháp đều là Phật pháp. Này Tu-bồ-đề! Nói tất cả pháp đó tức không phải tất cả pháp, nên gọi là tất cả pháp. Này Tu-bồ-đề, thí như có người thân cao lớn.

Ngài Tu-bồ-đề thưa :
          - Bạch Thế Tôn !  Như Lai nói thân người cao lớn ắt không phải thân lớn, ấy gọi là thân lớn.

          - Này Tu-bồ-đề ! Bồ-tát cũng như thế, nếu nói lời thế này :  ta sẽ diệt độ vô lượng chúng sanh, ắt không gọi là Bồ-tát. Vì cớ sao ?  Này Tu-bồ-đề !  Thật không có pháp tên là Bồ-tát. Thế nên Phật nói :  tất cả pháp không ngã, không nhân, không chúng sanh, không thọ giả.

          Này Tu-bồ-đề !  Nếu Bồ-tát nói lời thế này: ta sẽ trang nghiêm cõi Phật, ấy chẳng gọi là Bồ-tát. Vì cớ sao ? Như Lai nói trang nghiêm cõi Phật tức chẳng phải trang nghiêm, ấy gọi là trang nghiêm.

          Này Tu-bồ-đề !  Nếu Bồ-tát thông đạt pháp vô ngã, Như Lai gọi đó là chân thật Bồ-tát.

--

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét